Báo cáo sơ bộ về cuộc khảo sát xã hội học tại Thái Bình cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 1997

Tương Lai

Viện trưởng Viện Xã hội học,

Thành viên của Tổ Nghiên cứu Đổi mới của Thủ tướng Chính phủ

Đầu năm mới BVN khai trương bằng bài viết của GS Tương Lai cách đây đúng 15 năm. Trong tư cách Viện trưởng Viện Xã hội học và là thành viên Tổ Nghiên cứu Đổi mới của Thủ tướng Chính phủ lúc bấy giờ, ông đã huy động cả một đội ngũ chuyên viên khoa học về ngay Thái Bình khảo sát tại chỗ cuộc nổi dậy ở Thái Bình vừa nổ ra trước đấy mà đỉnh điểm là vụ đập phá tan tành nhà cửa của cán bộ lãnh đạo xã An Ninh chỉ trong một đêm 26 đến rạng sáng 27 tháng Sáu năm 1997; sau đó ông cho tập hợp tư liệu, phân tích kỹ lưỡng và trình lên Thủ tướng Võ Văn Kiệt bản báo cáo chi tiết và mạch lạc này, có kèm thêm những kiến giải sát sườn của các nhà khoa học.

Có thể nói ngay, vụ Tiên Lãng trước Tết âm lịch vừa qua chỉ là một hiện tượng Thái Bình nối dài. Nhưng đây là sự nối dài trong điều kiện mọi thứ đều nâng cấp không thể tưởng tượng: mức độ tham nhũng của các quan lại nhân danh cách mạng trên đất nước ta trầm trọng hơn rất nhiều (không phải chỉ một vài con sâu loại nhỏ mà cả một bầy sâu cỡ bự lúc nhúc khắp nơi), và thủ đoạn đàn áp của cơ quan chức năng dưới sự điều khiển của đám công bộc ấy đối với dân cũng trắng trợn tàn bạo hơn gấp bội. Tiếng nổ của trái mìn tự tạo của anh Đoàn Văn Vươn là dấu hiệu của một khả năng kịch biến chưa hề có: Người dân đứng trước những ngõ cụt không còn đường sống đành tìm đến biện pháp cuối cùng để tự bảo vệ mình.

Chúng tôi được biết Nghị quyết chỉnh đốn Đảng do TBT Nguyễn Phú Trọng ký chưa ráo mực hiện đang là trọng điểm mà toàn Đảng cầm quyền phải dốc tâm sức để thực hiện. Chúng tôi chờ đợi kết quả của hành động có tính đột phá ấy, mặc dù trong lòng không có gì lạc quan cho lắm, bởi từ 15 năm trước các nhà khoa học đã cảnh báo đến nơi đến chốn. Vậy mà...

Giờ đây, đông đảo các nhà khoa học thứ thiệt đã được mời ra khỏi các tổ chức tham vấn và phản biện cho Chính phủ. Chỉ còn lại những người có bằng cấp to, liệu họ có thể có được nổi một bản điều tra xã hội học cặn kẽ khách quan như bản báo cáo mà Viện Xã hội học đã làm cách đây 15 năm? Nếu có được một bản báo cáo như thế đi nữa, liệu những người cầm chịch hôm nay có thì giờ đọc, nghiền ngẫm nó một cách nhiệt tâm để tìm cho ra một giải pháp hữu hiệu bảo đảm một Tiên Lãng thứ hai sẽ không còn xuất hiện?

Tình thế quả là nước sôi lửa bỏng và chúng tôi e chu kỳ của sự lặp lại sẽ không lâu đến 15 năm nữa mà nhanh hơn nhiều. Vấn đề là lòng dân. Bây giờ dân đang tin vào ai. Súng, dùi cui, roi điện, xe ủi, kể cả  trại giam hoặc vặn cổ, đánh gãy xương sườn, dập lá lách... để đối phó với lòng dân là hoàn toàn thất sách.

Bauxite Việt Nam

Sự kiện đêm 26 rạng ngày 27/6/1997 ở xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình như một hồi chuông báo động khiến chúng ta cần tỉnh táo nhìn nhận lại về hậu phương vững chãi của chúng ta để có những suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân trong sự nghiệp Ðổi mới và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp.

An Ninh là lá cờ đầu của huyện Quỳnh Phụ, và cũng có thể nói là lá cờ đầu của Thái Bình, một điển hình tiên tiến đã từng là quê hương của phong trào 5 tấn trước đây và hiện nay luôn luôn là lá cờ đầu của nhiều phong trào quần chúng chiếm lĩnh đỉnh cao thành tích về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, v.v. Gần đây Thái Bình càng nổi bật trong việc triển khai chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt với 4 công trình lớn: Ðiện, Ðường, Trường, Trạm [trạm y tế – BVN] cùng tiến hành đồng thời và thu được những thành tích lớn, tạo ra một diện mạo khang trang đẹp đẽ của một tỉnh lúa đồng bằng sông Hồng mà khách tham quan có thể ngồi trên ô tô đi khắp các xã trong tỉnh trên con đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ đã rải nhựa hoặc lát gạch phẳng lì!

Ấy thế rồi, đêm 26, rạng 27/6/97 hàng ngàn nông dân nổi dậy đập phá chậu cảnh tường hoa, bàn xa lông tiếp khách, bát đĩa dùng liên hoan và chiêu đãi, kính tủ bàn của trụ sở ủy ban xã, một tòa nhà uy nghi, lộng lẫy vừa xây tốn hơn 800 triệu đồng. Rồi sau đó, dân kéo đi đập phá 8 ngôi nhà của bí thư Ðảng ủy, Chủ tịch ủy ban, cán bộ địa chính và các bậc chức sắc khác nhau của xã (chỉ có một nhà của một người dân làm việc nấu nướng phục vụ hội nghị và khách của xã). Sau đêm hỗn loạn, giận dữ, đốt phá, sáng mai hoạt động của xã lại bình thường, người ta lại vẫn ra đồng họp chợ, đi lại chuyện trò vô tư!

Ba ngày sau sự kiện nói trên, theo yêu cầu của Tổ Nghiên cứu Ðổi mới của Thủ tướng Chính phủ thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đoàn cán bộ xã hội học chúng tôi về xã An Ninh, được Bí thư Ðảng ủy tiếp tại trụ sở mà kính vỡ, mảnh bát đĩa vỡ, chậu cảnh vỡ vẫn ngổn ngang, kể cả một tượng Bác Hồ bằng thạch cao trắng bị vỡ vẫn nằm ở góc bàn trong hội trường và theo lời của Bí thư Ðảng ủy xã thì "Hiện trường vẫn được giữ nguyên" như để nói lên tính phản loạn không thể dung tha được và cần phải trấn áp ngay của vụ bạo động 26-27/6/97.

Vấn đề gì đã diễn ra ở đây? Nguyên nhân vì đâu? Hậu quả ra sao? Diễn biến sắp tới sẽ thế nào? Cần có kiến nghị gì đây từ sự tiếp cận xã hội học? Ðó là vấn đề đặt ra cho chúng ta, ba nhóm nghiên cứu gồm 10 người.

Một nhóm về ở ngay trong lòng điểm nóng: xã An Ninh gồm 4 người (1 Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ, Trưởng phòng Xã hội học nông thôn, 1 Bí thư chi bộ và là Trợ lý của Viện trưởng, 1 Phó Tiến sĩ Trưởng phòng Tổ chức và Đào tạo cán bộ, đảng viên, 1 nữ cán bộ nghiên cứu của Phòng Xã hội học nông thôn, đảng viên).

Một nhóm gồm ba cán bộ, do một Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ và là Phó Viện trưởng phụ trách khoa học dẫn đầu, một cán bộ nghiên cứu, Phó Phòng Xã hội học nông thôn, một cán bộ trẻ (cả hai đều là người quê ở Thái Bình, đang có họ hàng ở Thái Bình) đi theo tuyến rộng, dọc theo đường Hà Nam, Nam Ðịnh, qua Tiền Hải, vòng về thị xã, qua Ðông Hưng, Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Kiến Xương để tìm hiểu âm vang và độ nhiễm cảm của các sự kiện bạo động trong tỉnh.

Một nhóm xuất phát sau một tuần, đến huyện Thái Thụy nơi có điểm nóng Thái Thịnh để đo sự diễn biến sau sự kiện An Ninh và dư luận quần chúng về các giải pháp của chính quyền Tỉnh đã áp dụng. Nhóm này gồm một Phó Giáo sư, ba Phó Tiến sĩ đều là đảng viên, trong đó có một chuyên gia đã từng có công trình nghiên cứu sâu về nông thôn và về Thái Bình, đang làm luận án Tiến sĩ sẽ bảo vệ tại Pháp về đề tài nông thôn Việt Nam.

Ðồng thời với các nhóm đi khảo sát tại Thái Bình, Viện trưởng Viện Xã hội học đã giao nhiệm vụ cho một Phó Tiến sĩ Phó Trưởng Phòng Xã hội học dân số và Gia đình đang cùng với các cán bộ triển khai một đề tài nghiên cứu về hộ kinh tế gia đình và địa vị của người phụ nữ kết hợp khảo sát thêm về chủ đề như nhóm nghiên cứu sâu ở Thái Bình đang làm, hiện triển khai tại Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cũng như thế, sau khi kết thúc nghiên cứu ở Thái Bình một tuần, Viện trưởng Viện Xã hội học đã trao nhiệm vụ cho một đoàn nghiên cứu tại 10 xã trong 3 tỉnh (Hà Nam, Nam Ðịnh, Ninh Bình) về đề tài biến động dân số thu thập thêm tư liệu về chủ đề như đã nghiên cứu ở Thái Bình, người phụ trách này là một nghiên cứu sinh đang làm luận án Tiến sĩ ở Mỹ về dân số, là đảng viên, kết hợp với đồng chí Bí thư chi bộ đã từng nghiên cứu ở Quỳnh Phụ, Thái Bình cùng tiến hành, và cũng chỉ hai đảng viên này thu thập số liệu để báo cáo trực tiếp cho Viện trưởng. Công việc đang được triển khai và sẽ bổ sung vào báo cáo tổng kết này.

Bản báo cáo tổng kết này là dựa trên các tư liệu thu thập được qua phỏng vấn sâu, quan sát trực tiếp, các văn bản của tỉnh, huyện, xã (băng ghi âm ghi lời người được hỏi và tập hồ sơ ghi lại nội dung đã thu vào băng) cùng với 8 báo cáo của các cán bộ đi khảo sát và sơ kết của nhóm khảo sát. Vì đây chỉ là thông tin được thu thập qua phỏng vấn, chuyện trò và lời người kể có thể là người trong cuộc, người chứng kiến, người nghe kể lại không khỏi bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan, cho nên các số liệu (cho dù ghi thành con số) cũng chỉ có ý nghĩa phỏng chừng, tương đối khác với thống kê và báo cáo chính thức của người có trách nhiệm ở địa phương. Người viết báo cáo, trong trường hợp có dẫn ra các số liệu cũng là để gợi lên tình huống, không mang tính biểu đạt thật chính xác.

I. Tổng quan về các sự kiện dẫn đến sự bùng nổ ở Thái Bình

Những ngày cuối cùng của tháng 6 năm 1997 đã cho thấy tính nghiêm trọng của một loạt những sự biến đã xảy ra ở một phần lớn các vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Ðã có tới 5 (Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Ðông Hưng, Thái Thụy) trên 7 huyện và thị của tỉnh có phản ứng và khiếu kiện của nông dân về những vấn đề dân chủ và công bằng xã hội trong nông thôn. Nội dung chủ yếu của những khiếu kiện này tập trung xung quanh việc đòi thanh tra và công khai hóa việc phân chia ruộng và nhất là việc thu và chi những khoản đóng góp mà chính quyền địa phương (xã và huyện) thu của nông dân trong những năm qua để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong nông thôn, chủ yếu là các công trình: Ðiện - Ðường - Trường - Trạm.

Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó đặc biệt là các công trình Ðiện - Ðường -Trường - Trạm là một chủ trương đúng đắn của tỉnh, rất hợp với nguyện vọng của dân. Người dân Thái Bình nói chung rất tự hào về hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên huyện và liên xã của họ.

Ðiều đáng nói ở đây là các công trình này đã được thực hiện trong 5 năm qua với một tốc độ và nhịp điệu quá nhanh. Do đó các khoản thu từ nhân dân cũng tăng nhanh chưa từng thấy. Năm 1991, tỉnh chủ trương chỉ đảm bảo cho 65% các hộ trong tỉnh có điện dùng vào năm 1995. Nhưng cuối năm 1992 đã có 70% số hộ (báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh, tháng 10 năm 1992) và năm 1996, 100% số hộ trong tỉnh đã có điện dùng, toàn bộ đường tỉnh đã được nhựa hoặc xi măng hóa hết và 2/3 số trường học trong tỉnh đã là nhà cao tầng. Nguồn vốn để chi cho các công trình này chủ yếu lấy từ các nguồn trong tỉnh.

Trong ba năm 1988 - 1990, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật là 39,5 tỉ đồng, trong đó 9,5 tỉ là do Trung ương cấp, 30 tỉ là từ huy động ngân sách trong tỉnh. Nhưng phần vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân và tập thể cũng rất lớn. Ngoài ra, các quỹ giao thông xóm xã cũng ra sức phát triển. Có nơi còn chủ trương "cứng hóa kênh mương" để tăng nhanh các nguồn thu từ nhân dân (Thái Thụy). Phải chăng các khoản thu này là quá lớn so với khả năng đóng góp của người nông dân Thái Bình vốn chỉ có nguồn thu từ hạt thóc là chủ yếu?

Cơ cấu thu nhập của tỉnh vào năm 1991 cho thấy 81% là thu từ nông nghiệp. Các khoản thu này lên tới chừng trên dưới 35 khoản, thay vì 14 khoản theo quy định của huyện và 7 khoản theo quy định của tỉnh. Ðiều cần lưu ý là các khoản thu và chi này đã không được sử dụng một cách công khai và dân chủ. Các khoản thanh toán được công bố lại cho thấy có dấu hiệu của sự lạm dụng công quỹ, bởi nó vượt quá xa các định mức chi phí trên thị trường (giá của các công trình xây dựng thường cao gấp nhiều lần giá trị thực tế của chúng). Một chiếc cống thoát nước do chính quyền xã xây đã quyết toán tới 21 triệu đồng, nhưng khi dân đập đi xây lại thì chỉ mất 7,5 triệu đồng (xã Quỳnh Hồng). Trong khi đó, một số cán bộ chủ chốt ở một số địa phương lại có biểu hiện giàu lên nhanh quá mức bình thường trong năm năm qua, cùng với sự giàu lên trông thấy qua nhà cửa, các phương tiện sử dụng trong sinh hoạt là những nét xa hoa kệch cỡm về lối sống của một số người dễ dàng gây phản ứng trong quần chúng.

Nhân dân một số địa phương đã có đơn khiếu kiện lên xã, huyện, thậm chí cả tỉnh với các hình thức hợp pháp, từ đưa đơn có nhiều chữ ký cho một người đi gặp các cấp lãnh đạo có thẩm quyền (Tiền Hải, xã Ðông Trà), tới việc tập trung vài chục hay vài trăm người trước cổng Ủy ban tỉnh từ cuối năm 1996 (Quỳnh Hội: tháng 10/1996, 700 người lên tỉnh 2 đêm 1 ngày để trình đơn khiếu kiện, sau đó là đợt 2, với 1.500 người, đòi thanh tra lại đất 5% vào tháng 4/1997). Người ta ước tính có chừng 120/260 xã trong tỉnh có biểu tình đưa đơn và từ chỗ đi lẻ tẻ, dần dần hình thành tổ chức quy mô hơn, người ta cho rằng có chừng 40 cuộc biểu tình lên tỉnh được tổ chức có quy củ và trật tự.

Những cuộc khiếu kiện này thường được tiếp đón một cách không nhiệt tình. Cách trả lời thường là sự im lặng kéo dài, hoặc lờ đi, hoặc cho thanh tra công khai nhưng kết luận không có gì. Những vấn đề này, thực ra, đã nảy sinh từ những năm 86 - 90 song cách giải thích chính thức của các cấp chính quyền từ xã, đến huyện, đến tỉnh về những sự kiện trên thường cho đó là "những biểu hiện tiêu cực nảy sinh do một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền tham nhũng, đè nén dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Mặt khác cũng là do một số người lợi dụng việc mở rộng dân chủ trong quá trình đổi mới và những khó khăn đang gặp phải đã có hành động cực đoan quá khích, thậm chí tiếp tay cho địch, gây rối nội bộ, nói xấu Ðảng và Nhà nước. Những cách giải thích này không thuyết phục được quần chúng, nhất là vì nó chưa đưa ra được những giải pháp có hiệu quả thiết thực.

Từ tháng 5 năm 1997, những sự biến xảy ra dồn dập hơn, mãnh liệt hơn, và có chiều hướng sử dụng bạo lực từ cả hai phía, để răn đe hoặc để giải quyết những vấn đề đang tồn tại.

Sự xuất hiện của cảnh sát cơ động dường như đã đặt các cuộc biểu tình hợp thức vào tình thế bế tắc. Xu hướng bạo lực ngày càng có khả năng trở thành hiện thực. Sự kiềm chế và tính tổ chức ở những người biểu tình càng giảm sút thì các sự biến xã hội càng khó kiểm soát. Người ta chứng kiến một cuộc khủng hoảng chính trị xã hội thực sự trong nhiều xã và huyện của nông thôn Thái Bình.

Ngày 11 tháng 5 năm 1997, theo lời ước đoán thì có khoảng 2000 nông dân Quỳnh Phụ thuộc trên dưới 36 trong 38 xã của huyện đã tham gia vào cuộc biểu tình từ xã lên tỉnh bằng xe đạp và sau đó ở lại tỉnh 2 ngày 1 đêm, gây ảnh hưởng lớn trong toàn tỉnh. Cũng theo lời kể lại thì trong khi cuộc biểu tình này đang cố gắng thể hiện thái độ nghiêm túc và thận trọng trong việc bày tỏ nguyện vọng của đông đảo nhân dân trong huyện, thì ở trước trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Quỳnh Phụ, cuộc tập trung của nhân dân nhiều xã trong huyện, cứ đông dần lên vì người các nơi ùn ùn kéo đến, có người ước lượng là có đến 1 vạn (?) người. Khi đám đông đã đến quy mô như vậy, chỉ cần một hành động quá khích là có thể dẫn đến những bùng nổ không sao kiềm chế được.

Theo lời người kể lại, thì do cách xử sự thiếu khôn ngoan và không thỏa đáng của một số người đại diện cho quyền lực nhà nước, dân phẫn nộ đã dùng bạo lực, phá trụ sở công an huyện, tấn công bằng gạch đá vào lực lượng an ninh có trang bị xe phun nước và chó béc-giê. Trước 500 công an, với 3 xe vòi rồng, dùi cui lá chắn, dân bảo nhau chuẩn bị nếu bị phun nước thì cả đàn ông, đàn bà sẽ cởi hết quần áo ra tắm. Công an ném 10 quả lựu đạn cay, dân phá hỏng một xe vòi rồng trong tiếng kêu "thế này thì dân chết mất", lại có tiếng "thà chết còn hơn sống khổ". Công an được lệnh không đánh lại dân. Nhưng khi trời tối, dân phát hiện có công an mặc thường phục trà trộn vào đám đông quần chúng. Thế là diễn ra cảnh bi hài, dân hô: "cứ xem thằng nào đi giày da, sờ vào bụng thằng nào to tức là không phải dân, nhằm vào nó mà nện". Công an bị thương 9, 10 người, dân bị thương vài chục. Công an bị thương được đưa vào bệnh viện, nhưng dân bị thương thì không vào vì sợ bị phát hiện nên khiêng về làng tất.

Dẫn đến cuộc bạo động này là chuyện dân bao vây Viện Kiểm sát huyện Quỳnh Phụ đòi thả hai người đánh kẻng tập hợp dân, đã bị bắt. Cuộc xô xát này, cho dù không để xảy ra tử vong song đã là bước ngoặt dẫn đến những sự biến sau này ngày càng bạo liệt hơn, bạo lực nhiều hơn và ngày càng mang tính trả thù hơn là đấu tranh hợp pháp.

Ðiều đáng lo ngại nữa là các huyện khác trong tỉnh đều coi cuộc đấu tranh này của người dân Quỳnh Phụ đã trở thành mô hình cho cách đặt vấn đề và phương thức đấu tranh của họ. Một mặt, những người khởi xướng cuộc khiếu kiện, rồi biểu tình bày tỏ sự nhiệt thành với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sáng của Ðảng, bảo vệ sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân do Ðảng và nhà nước phát động. Mặt khác họ kêu gọi tinh thần cố kết cộng đồng làng xã vốn tiềm tàng trong đầu óc của mỗi người dân để buộc mọi người phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng theo cách nghĩ và cách làm của họ. Chẳng hạn như: ai không đi biểu tình, khiếu kiện thì tùy, nhưng nhà có người chết đừng có gọi dân khiêng, có cháy nhà đừng gọi người dập lửa. Phương thức đấu tranh ấy, chính là sự quay trở về với "lệ làng", mà buộc "phép vua" trước đây đã phải thua. Một khi mà kỷ cương, phép nước do những cán bộ xã, huyện và cả tỉnh đại diện đã không yên được lòng dân, thì tính tự phát của lệ làng, của đám đông có tổ chức hay không có tổ chức, dẫn đến sự manh động, là điều không thể tránh khỏi.

Bước chuyển từ "đối thoại" sang "đối đầu" đã thực sự chia rẽ một bộ phận lớn nhân dân với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ trật tự là công an. Xu hướng manh động của những người nông dân mất bình tĩnh với sự tham gia của những trẻ em vị thành niên và những người kém kinh nghiệm xã hội đã được thổi bùng lên bởi các phần tử cực đoan quá khích và những thành phần bất hảo trong xã hội, điều ấy cũng không có gì lạ.

Ví dụ như, người ta kể lại rằng, ngày 8 tháng 6 năm 1997, chừng 300 thanh niên tuổi từ 13 đến 17 đã trói Chủ tịch và Bí thư xã Quỳnh Hoa, dong lên huyện dưới trời mưa mà không cho đội mũ. Họ phá cổng Ủy ban huyện làm Chủ tịch huyện phải bỏ chạy. Họ la hét và hạ nhục bằng những câu hỏi khiêu khích: vì sao mà "giàu lên nhanh thế", vì sao mà "chóng béo" đến thế.

Khoảng 10 ngày sau là sự kiện lên đến cao trào bằng việc đốt phá đêm 26 rạng 27/6/97 tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ. Rồi sau Quỳnh Phụ, một loạt các huyện khác đã nổ ra đấu tranh dưới nhiều hình thức kể cả biểu tình, khiếu kiện như ở Ðông Hưng (xã Ðông Cường) lẫn tấn công bằng bạo lực vào các cán bộ xã bị coi là phần tử tham nhũng. Người ta cho rằng tại ba xã Thái Thịnh, Thái Tân và Mĩ Lộc của huyện Thái Thụy là đỉnh cao của những cuộc tấn công bằng bạo lực. Phần đông các cán bộ xã bị tấn công đã phải trốn chạy. Những người còn lại đã phải dùng hình thức tự vệ bằng vũ khí và sự hỗ trợ của họ hàng, người cùng xóm gắn bó với họ.

Sau những bùng nổ đó, huyện, tỉnh (và có thể cả Trung ương) đã có những giải pháp, thêm vào đó, khung cảnh khủng bố và sự phá phách của những phần tử quá khích cũng đã làm cho nhiều người phải suy nghĩ lại về mục tiêu và phương thức của những cuộc đấu tranh đang diễn ra. Sự trấn áp những phần tử quá khích và những lời hối lỗi của họ trên màn ảnh truyền hình địa phương được đưa liên tục có thể cũng đã răn đe những hành vi bạo lực, manh động. Trong nhân dân cũng đã có người nhận ra hành động "luồn gió bẻ măng", có thể thấy rằng đám đông đã bị lợi dụng bởi những kẻ cực đoan, những kẻ muốn đục nước béo cò, trả thù cá nhân, thậm chí những hành vi lưu manh, cướp bóc. Tình hình tạm lắng xuống, song những nguyên nhân đẩy tới sự khủng hoảng và bùng nổ vừa qua vẫn còn nguyên, nếu chưa nói là đây đó, nơi này nơi khác được nung nấu thêm! Màn kịch bạo lực dường như đã đi quá những giới hạn có thể chấp nhận cả từ phía chính quyền lẫn từ phía nông dân, hậu quả xã hội thật nặng nề.

Ðể tỉnh táo giải quyết hậu quả nặng nề này đòi hỏi một sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, mổ xẻ phân tích để dám cắt bỏ ung nhọt, thuốc thang bổ dưỡng cho cơ thể xã hội lành mạnh với một đường lối đúng, giải pháp đúng.

Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào đây để giải quyết những mâu thuẫn đã tích lũy nhiều năm ở nông thôn mà không phải sử dụng đến bạo lực? Ðể trả lời câu hỏi này, việc đánh giá lại những sự biến vừa xảy ra một cách khách quan, tỉnh táo và thực sự cầu thị là tiền đồ quan trọng nhất.

Phải chăng là, không thể quy mọi nguyên nhân của các sự biến trên cho những kẻ quá khích, cực đoan hay những tên lưu manh chỉ thèm trả thù, cướp bóc và đập phá. Bởi lẽ nếu đúng là bọn này thì chúng không có uy tín, không có lẽ phải, không có khả năng tập hợp nông dân trong những cuộc biểu tình hợp pháp, nghiêm túc và đầy ý thức chính trị như vừa qua. Nếu đúng như câu chuyện được kể lại thì với một tập hợp trên dưới hai ngàn người, từ hơn 30 xã trong huyện, tập hợp ở một địa điểm và thời điểm bí mật đã được định trước chắc chắn là một hoạt động có tổ chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất.

Người ta kể lại rằng họ diễu hành hàng đôi bằng xe đạp lên tỉnh để tránh những trục trặc và ách tắc giao thông do họ gây ra hoặc do hoàn cảnh đưa lại. Cứ khoảng từ 30 đến 50 người lại có một người chữa xe đạp để tránh những trục trặc kỹ thuật. Ðến trụ sở Ủy ban tỉnh, họ ngồi thành hàng trên vỉa hè, tuyệt đối không bẻ cây, vứt rác, làm mất trật tự, trị an nơi họ có mặt. Họ kiên nhẫn chịu đựng sự căng thẳng, mệt mỏi trong 2 ngày 1 đêm chỉ để đưa được lá đơn khiếu nại tới tay ông Chủ tịch tỉnh. Ðã có biết bao giai thoại về cuộc biểu tình này chỉ để tỏ lòng khâm phục trình độ tổ chức của người lãnh đạo và ý thức tổ chức của những người tham gia. Ở những cuộc biểu tình này tuyệt nhiên không có xung đột, đụng độ nào cho dù có sự hiện diện của cảnh sát dã chiến (chỉ có xung đột ở huyện, xã).

Người ta cho rằng ở các cuộc biểu tình này có sự tập hợp đông đảo các tầng lớp nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh, từ người già, trẻ em, phụ nữ, tới những cựu chiến binh, đảng viên, cán bộ về hưu vốn đã từng lăn lộn, chiến đấu và hy sinh xương máu của mình qua hai cuộc kháng chiến. Nếu thế thì phải chăng, tính quần chúng rộng rãi của cuộc đấu tranh này cho phép nhìn nhận rằng đây là một phong trào xã hội, chứ không phải là những mâu thuẫn cục bộ, càng không là sự phản loạn chống lại chế độ.

Sự tham gia của đông đảo các đảng viên, các cựu chiến binh, những người về hưu, một lực lượng xã hội có trình độ nhận thức chính trị và xã hội tương đối cao trong nông thôn càng giải thích rõ tính chất và quy mô của cuộc đấu tranh của nông dân trong sự biến vừa qua và có lẽ chưa tắt hẳn.

Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực mà điển hình là cuộc đấu tranh chống tham nhũng và sự mất công bằng, mất dân chủ trong nông thôn, lực lượng này có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, họ không chỉ là nạn nhân trực tiếp của những tệ nạn cường hào, tham nhũng mà còn là những người có khả năng nhận biết. Chính vì thế, họ dễ trở thành những người khởi xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh mà chúng tôi đã nói ở trên.

Qua tìm hiểu các cán bộ xã, thấy rõ một điều là họ biết rất rõ những ai đứng đằng sau các cuộc tấn công vào bộ máy cán bộ lãnh đạo đương quyền. Nhóm chủ yếu phát động là những cán bộ trước cũng làm cán bộ nhưng nay không còn đương chức nữa. Thuộc về nhóm chủ yếu này ở một số nơi có cán bộ hưu trí, những người tương đối có trình độ cả về học vấn, tổ chức, còn sức lực nhưng thiếu việc làm. Cũng không nên quên rằng, Thái Bình, với đặc điểm đất chật, người đông, có một số lượng rất lớn người đi thoát ly làm cán bộ và nay về hưu. Ðược đảm bảo tương đối về đời sống, và cũng có hiểu biết, có nhiều thời gian những người thuộc nhóm này thường hay đề xuất ý kiến trong đời sống nông thôn.

Cũng chính vì vậy, cách đưa tin của Đài Truyền hình Thái Bình làm cho người ta nghĩ rằng bọn "côn đồ" xúi giục, nay bọn chúng đã bị bắt và ăn năn hối lỗi và nhận tội thì những người nhẹ dạ cả tin và manh động theo đuôi bọn quá khích đã nhận ra sai lầm. Cách đưa tin đó hình như không đạt được mục đích, mà ngược lại, trong khía cạnh nào đó lại như tích tụ thêm sự phẫn nộ.

Sau 10 năm tiến hành công cuộc Ðổi mới, rõ ràng là đời sống vật chất của mọi tầng lớp nông dân đã được nâng lên, nông thôn đã từng bước chuyển mình. Thái Bình lại càng nổi trội lên với bao lá cờ đầu, bao nhiêu vẻ khang trang, nề nếp. Vậy cái gì đã lôi kéo nông dân vào một cuộc đấu tranh dữ dội và rộng khắp như vậy? Theo chúng tôi có lẽ không chỉ đơn thuần là lý do kinh tế. Những khiếu kiện kinh tế chỉ là điểm xuất phát khi một số cán bộ xã bị nghi ngờ có hành vi tham nhũng lại tự cho mình cái quyền tự phán xét, tự hợp thức hóa những quyết định đáng nghi ngờ của họ. Những người này tự cho họ là đại diện cho Ðảng bởi họ chính là bí thư hay các đảng ủy viên quan trọng của đảng bộ, tự cho là đại diện cho Chính quyền nhân dân, khi họ là chủ tịch hay các phó chủ tịch, trưởng thôn, tự xem là đại diện cho pháp luật khi họ là chủ tịch hay các thành viên của Hội đồng nhân dân xã. Những người này triệt để sử dụng các thiết chế hiện hành đang bị quan liêu hóa để hợp thức hóa những quyết định của họ thay vì trực tiếp tham khảo, lắng nghe ý kiến của nhân dân, dần dần một bộ phận những người có quyền lực này xa lạ và đối lập với dân.

Một khi mà sự việc đã diễn ra đến tình huống như vậy thì ở những nơi này, nội bộ Ðảng bị chia rẽ vì phe cánh và quyền lợi, mất dần sức sống, không còn uy tín. Chính quyền rơi vào nguy cơ mất mối liên hệ với các tổ chức quần chúng. Giữa dân với Ðảng và Chính quyền mất dần kênh liên lạc vốn có. Người ta phải sử dụng đến các hình thức khiếu kiện vượt cấp để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của họ. Khi mọi hình thức đó không đi đến kết quả thì xung đột nổ ra dưới mọi hình thức. Các phần tử cực đoan quá khích có cơ hội để đưa cuộc đấu tranh nhanh chóng đi đến bế tắc bằng các hình thức bạo lực và sự trả thù.

Hãy dừng lại ở sự kiện xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, đi vào diễn biến dẫn đến sự bùng nổ để qua đó, chứng minh cho những phân tích nói trên.

Sự việc bắt đầu bằng những đụng độ căng thẳng xung quanh yêu cầu của Thanh tra Nhân dân xóm 10, thôn Kiến Quan, đòi ông Khương, nguyên Xóm trưởng giao nộp hồ sơ sổ sách để kiểm tra mà chưa được đáp ứng. Ngày 24/6/97, trước sức ép của nhiều người, ông Lương Văn Quang, thành viên Tổ Thanh tra Nhân dân xóm đã đánh kẻng họp dân toàn xóm mà chưa có sự đồng ý của người có trách nhiệm. Ðiều này đã dẫn đến tranh chấp, đôi co trong việc lập biên bản và giữ ông Quang tại trụ sở Ủy ban vào ngày 26/6/97. Việc này do Chủ tịch Nguyễn Mạnh Hàm và Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm chủ trương.

Bị kích động bởi một lời thách đố của Chủ tịch xã khi nóng giận, dân xóm 10, và sau đó kèm theo là hàng nghìn người từ các thôn xóm khác trong và ngoài xã đã tràn đến bao vây trụ sở xã vào cuối ngày hôm đó. Những hành động quá khích vượt quá giới hạn của cuộc đấu lý đã dẫn đến bạo lực. Ðám đông hàng trăm người trong đó có những người bịt mặt với sự reo hò, cổ xúy của hàng nghìn người vây Ủy ban (cỡ chừng vài ba nghìn người, có người cho rằng có tới 6 nghìn người) đã tràn vào trụ sở Ủy ban Nhân dân xã, đập phá bàn ghế, tủ công tác, bàn hội nghị, phòng ốc, chậu hoa, cây cảnh, bát đĩa, v.v. và săn đuổi cán bộ xã đang có mặt tại trụ sở. (Khi thấy sự việc có chiều hướng nguy hiểm, hệ thống đèn chiếu sáng đã phải vụt tắt, tất cả các cán bộ xã đều đã phải trốn chạy tháo thân).

Thế rồi từ 7h tối ngày hôm đó cho tới rạng sáng ngày hôm sau (chừng 3h30') là một cuộc bạo động của đám đông hàng nghìn người rầm rập trên đường lần lượt đi phá, đốt nhà cửa, lấy tài sản của các cán bộ chủ chốt trong xã.

Trình tự của cuộc đập phá: Thoạt đầu là Ủy ban xã, ngay sau đó là nhà chị Ly, liền kề Ủy ban (đây là gia đình thường thổi nấu cơm khách, phục vụ ăn uống cho Ủy ban xã). Người ta nói rằng việc đập phá nhà chị Ly là để cho bõ tức vì không tìm thấy ông Chủ tịch Hàm tại đó. Tại nhà này, đám đông đã đốt xe máy phân khối lớn của một cán bộ công an tỉnh biệt phái theo dõi cơ sở. Từ nhà chị Ly, đám đông ầm ầm đi tới xóm 11 dập phá nhà Chủ tịch Hàm. Sau đó, chuyển xuống xóm 6, phá nhà ông Trung, cán bộ quản lý địa chính xã, sang xóm 8, đập phá tài sản nhà ông Lự, Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Thái Bình. Tại đây, đã diễn ra cuộc đụng độ quyết liệt giữa thân nhân của chủ nhà với người đi đập phá, cả hai phía đều có người bị thương, đám đông đã bắt đầu nổi lửa đốt từ nhà này trở đi. Tiếp đó đám đông vượt đồng sang xóm 9, xóm 10 để đập phá và đốt nhà ông Hoa, Phó Chủ tịch phụ trách nội chính xã, quay trở về gần nhà Chủ tịch Hàm để đốt phá nhà ông Ðăng, Chỉ huy trưởng quân sự xã, sau đó tới các xóm khác đốt phá nhà ông Trừ (nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân khóa trước, nay là Trưởng ban Tài chính xã) rồi tới đốt phá nhà ông Hứa, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Ðiểm đốt phá cuối cùng là nhà Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm, huyện ủy viên huyện Quỳnh Phụ... Tại đây, đám đông giải tán vào lúc khoảng 3h30' sáng ngày 27/6/1997.

Từ những thông tin mà chúng tôi nắm được qua cuộc khảo sát nhanh được trình bày tóm tắt ở trên chúng tôi nghĩ có thể gợi lên một số nguyên nhân để giải thích các sự biến vừa rồi. Ðương nhiên ở đây cũng chỉ là sự suy nghĩ chủ quan của chúng tôi từ cách tiếp cận xã hội học. Ở những cách tiếp cận khác, có thể có sự nhìn nhận khác. Tuy vậy, chúng tôi cứ mạnh dạn nêu lên như sau:

II. Sức dân bị khai thác quá mức, bị sử dụng lãng phí và bị tham nhũng quá mức

Là một tỉnh nông nghiệp, mật độ dân số quá cao và có một thời tỉ lệ phát triển dân số quá lớn. Thái Bình cho đến nay vẫn chỉ trông chờ vào việc trồng lúa. 102.360 ha đất nông nghiệp của Thái Bình đã được thâm canh đến mức tối đa và nhìn chung năng suất cũng đã đạt đến mức tối đa: 10-15 tấn/ha 1 năm; tức là khoảng từ 2 cho đến 2,5tạ/sào/vụ. Bình quân đất canh tác mỗi khẩu dao động từ 1 tới 1,5 sào/người. Ước tính năm 1997 trung bình mỗi người dân Thái Bình xuất khẩu không quá 15 đô la, trong đó một phần không nhỏ trông chờ vào xuất khẩu lúa. Ðược mùa nên giá lúa đã rơi mạnh; giá lúa trung bình tại các chợ là 1.200đ/kg thóc và sau vụ Ðông xuân 1997 Thái Bình còn hàng chục vạn tấn chưa có thị trường tiêu thụ.

Nhìn từ góc độ hộ gia đình, tình hình lúa ít sáng sủa hơn. Theo nhiều người đánh giá, nếu cần mua 200đ thuốc lào cũng phải bán lúa và 5 cân mới mua nổi 1 bao Vinataba (Thời báo Kinh tế, 16/7/1997). Những nguồn thu nhập khác ngoài lúa như chăn nuôi là thấp và ít ỏi. Chúng tôi dẫn ra đây trường hợp một nông dân đã từng tham gia biểu tình ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Gia đình anh ta 5 người với 7,5 sào ruộng có thể có thu nhập tối đa là:

7,5 sào X 4 tạ = 30 tạ = 3 tấn = 3.600.000đ

2 tạ lợn X 10.000đ/kg = 2.000.000đ

Các khoản khác: = 2.000.000đ

Tổng cộng: = 7.600.000đ

Trong lúc đó, các khoản chi phí chủ yếu là:

7,5 sào X 1 tạ = 7,5 tạ = 1.000.000đ

2 tạ lợn X 5.000đ/kg = 1.000.000đ

Tổng cộng: = 2.000.000đ

Các khoản đóng góp cho chính quyền:

Vụ đông: 71,1 tạ = 850.000đ

Vụ mùa: 5,7 tạ = 680.000đ

Cộng: = 1.530.000đ

Tổng cộng: = 4.100.000đ

Thu nhập bình quân 800.000đ/người

Có lẽ đây là một trường hợp không mấy cá biệt, mà có thể xem như khá phổ biến đối với Thái Bình.

Với nguồn thu tối đa là 1.000.000đ/người/năm, người nông dân phải chi cho ăn, mặc, học hành của con cái, chữa bệnh, sửa chữa nhà cửa và vô vàn các khoản khác nữa. Trong lúc đó hệ thống nhu cầu lại được mở rộng, theo kênh truyền t


© 2016 About Us | Terms & Conditions