THƯ TỐ CÁO LÃNH ĐẠO ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC LẦN THỨ 76

Lê Anh Hùng    



Kính thưa quý vị,   

Đây là lần thứ bảy mươi sáu (76) tôi gửi đơn thư đến đầy đủ các cơ quan chức năng của Việt Nam để tố cáo một số vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Kể từ năm 2008 đến nay, tôi đã vạch trần âm mưu cướp nước của Trung Quốc thông qua bàn tay của ông cựu Phó Thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải, nay là Bí thư Thành uỷ Hà Nội, cùng một số lãnh đạo chóp bu đã bị ông ta khống chế và thao túng. Vì vụ tố cáo của tôi không được giải quyết nên đất nước những năm qua đã rơi vào thảm cảnh như chúng ta đã thấy: nền kinh tế ngày càng phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc; 90% các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, hàng trăm ngàn ha rừng đầu nguồn biên giới, hàng loạt vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng trên cả nước… đã rơi vào tay Trung Quốc. Tất cả đều diễn ra dưới sự phù phép của ngài cựu PTT phụ trách kinh tế Hoàng Trung Hải.

Ông Hoàng Trung Hải là người đã ký hai văn bản quan trọng nhất, mang tính quyết định đưa đến sự ra đời của dự án Formosa Hà Tĩnh: công văn số 323/TTg-QHQT ngày 4/3/2008 "đồng ý chủ trương cho Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa - Đài Loan lập Dự án đầu tư nhà máy liên hợp luyện thép và cảng nước sâu Sơn Dương tại Khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh", và công văn số 869/TTg-QHQT ngày 6/6/2008 “đồng ý việc Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương tại Khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh”. Và Formosa Hà Tĩnh mới chỉ là phần nổi của tảng băng thảm hoạ mà “con ngựa thành Troy” Hoàng Trung Hải đã gây ra cho Việt Nam suốt bao năm qua.

Thay vì bị xử lý, ông Hoàng Trung Hải đã trở thành Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội và là một trong những ứng cử viên tiềm tàng cho một chiếc ghế trong “tứ trụ”, thậm chí cả ngôi vị Tổng Bí thư.

Ngày 16/9/2013, tôi đã trực tiếp gửi đơn thư cho ĐBQH Dương Trung Quốc. Gần 4 năm đã trôi qua, mặc dù tôi đã rất nhiều lần đốc thúc nhưng đến nay ông Dương Trung Quốc vẫn chưa hề trả lời đơn thư của tôi theo đúng quy định của pháp luật.

Tôi khẩn thiết yêu cầu các cơ quan chức năng giải quyết đơn thư tố cáo mà tôi đã gửi cho ĐBQH Dương Trung Quốc vào ngày 16/9/2013. Nếu tôi tố cáo đúng thì phải xử lý những người bị tố cáo; nếu tôi tố cáo sai thì phải xử tôi về tội vu khống.

Hà Nội, ngày 21/5/2017


Lê Anh Hùng
TÓM LƯỢC CÂU CHUYỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐƠN THƯ TỐ CÁO LÃNH ĐẠO ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Tháng 3/2005, vợ tôi (Lê Thị Phương Anh, sinh ngày 11/11/1984, CMND số 013720063 do Công an Hà Nội cấp ngày 9/7/2004.) bắt đầu đi làm nhân viên bán hàng tại một cửa hàng của Cty May Việt Tiến (nay là Tổng Cty May Việt Tiến) trên phố Chùa Bộc. Sau 3 ngày, Trọng – Trưởng phòng Marketing của Chi nhánh Cty May Việt Tiến tại Hà Nội – điều vợ tôi về làm nhân viên tại quầy hàng Việt Tiến ở Tràng Tiền Plaza, do Loan, sinh năm 1978, làm tổ trưởng.

Ba tuần sau, Loan bị Trọng điều đi làm tổ trưởng quầy hàng Việt Tiến tại siêu thị Metro (đường Phạm Văn Đồng). Vợ tôi được Trọng giao làm tổ trưởng Việt Tiến ở TràngTiềnPlaza trước thái độ kèn cựa và ghen tị của Loan và Thuỷ (sinh năm 1985, nhân viên Việt Tiến tại TràngTiềnPlaza). Tuy nhiên, sau đó Thuỷ lại cảm phục và kết nghĩa chị em với vợ tôi, còn Loan thì vẫn ngấm ngầm ghen tức với cô ấy.

Sau khi lên làm tổ trưởng, vợ tôi đã biến quầy hàng ở Tràng Tiền Plaza thành một cửa hàng điển hình của Cty Việt Tiến không chỉ ở Hà Nội mà còn trên phạm vi cả nước, với  doanh số bán hàng cao nhất. Nhờ đó, cô ấy nhiều lần được Chi nhánh Hà Nội và Cty tuyên dương, khen thưởng.

Thời gian làm tổ trưởng ở Tràng Tiền Plaza, vợ tôi cũng được Trọng tin tưởng nhờ giúp một số việc thuộc lĩnh vực của Trọng như ký kết hợp đồng với các đại lý, giao hàng... do Trọng còn bận rộn buôn bán hàng cấm. Vì thế, đến tháng 8/2005, khi Cty Việt Tiến thay đổi nhân sự Chi nhánh Hà Nội (ông Xuân Giám đốc Chi nhánh vào Tp HCM đảm nhận nhiệm vụ khác, Trọng lên thay) thì vợ tôi được Trọng đề bạt lên thay vị trí của anh ta và được ông Nguyễn Đình Trường, TGĐ Việt Tiến chấp nhận. (Do việc này mà vợ tôi lại càng khiến Loan ghen tức.) Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/9/2005. Tuy nhiên, từ cuối tháng 8/2005, vợ tôi đã đảm trách vai trò của Trọng. Ông NĐ Trường cũng nhận vợ tôi làm con nuôi trong thời gian này.

Nhờ thành tích vô cùng ấn tượng trong một thời gian ngắn ngủi làm Trưởng phòng Marketing Chi nhánh Hà Nội mà ông NĐ Trường quyết định bổ nhiệm vợ tôi làm Giám đốc Chi nhánh Hà Nội của Cty May Việt Tiến. Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/10/2005. Do việc này ông NĐ Trường quyết định không đúng quy trình nên ông bị Lê Viết Toà (tên thật là Lê Văn Toại), Phó TGĐ Thường trực Cty May Việt Tiến và là đệ tử ruột của ông Lê Quốc Ân (Chủ tịch HĐQT Vinatex), phản đối quyết liệt. Sau khi chứng kiến cuộc “sát hạch” đối với vợ tôi ngày 3/10/2005 do Lê Văn Toại cùng bộ sậu tiến hành, ông Lê Quốc Ân lại ép ông Trường để nhận vợ tôi làm con nuôi và đưa về làm Trưởng phòng Marketing của Vinatex. Tiếp theo, sau cuộc ra mắt của vợ tôi tại Vinatex vào ngày 13/10/2005, ông Hoàng Trung Hải, Bộ trưởng Công nghiệp, lại ép ông Trường và ông Ân để nhận vợ tôi làm con nuôi. Trong thời gian đó, Lê Văn Toại, với sự xúc xiểm của Loan (bồ của anh ta), đã nẩy sinh mâu thuẫn với vợ tôi. Anh ta bị mất chức nên thuê xã hội đen trả thù vợ tôi, khiến vợ chồng tôi phải bỏ chạy vào Đông Hà, Quảng Trị (quê vợ tôi) để lánh nạn vào ngày 2/11/2005.

Ông Hoàng Trung Hải nhờ ông Lê Hồng Anh và ông Nguyễn Khánh Toàn (Bộ trưởng và Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an) để bắt Lê Văn Toại. Bố mẹ Lê Văn Toại (vốn là trùm thế giới ngầm ở Sài Gòn) đã dùng tiền để gõ mọi cánh cửa và chạy đến tận TBT Nông Đức Mạnh.

Cuối tháng 11/2005, vợ tôi tình cờ gặp ông Nguyễn Tấn Dũng, Phó TT Thường trực, đang vào Quảng Trị để chỉ đạo phòng chống bão lụt, tại cuộc tiếp đón do ông Vũ Trọng Kim, Phó Ban Dân vận TW (nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị), tổ chức. Biết vợ tôi là Trưởng phòng Marketing của Vinatex và là con nuôi của Bộ trưởng CN Hoàng Trung Hải nên ông NT Dũng lại đòi nhận vợ tôi làm con nuôi. Lúc này, ông Hải cũng cho ông Dũng biết nguyên nhân vợ chồng tôi phải chạy trốn vào Đông Hà. Tiếp theo, ông NT Dũng đưa vợ tôi từ Đông Hà vào Huế đón đoàn của các ông Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười và Phan Văn Khải vào thăm Huế và Quảng Trị (hình như để bàn chuyện cơ mật trước thềm Đại hội X của Đảng). Đầu tháng 12/2005, ông NĐ Mạnh lại nhận vợ tôi làm con nuôi (ông ta muốn hình thành một liên minh chính trị với ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Hoàng Trung Hải). Sau đó, ông Mạnh đã trả lại số tiền hối lộ mà ông nhận từ gia đình Lê Văn Toại để giúp vợ chồng tôi.

Trong thời gian vợ tôi làm việc tại Cty May Việt Tiến, Trọng đã nảy sinh tình cảm và dần dần si mê cô ấy. Là đệ tử ruột trong băng đảng ma tuý của ông HT Hải nên anh ta nắm được bằng chứng phạm tội của ông Hải. Dần dà, anh ta không chế, ép buộc ông Hải phải làm sao để chia lìa vợ chồng tôi, tạo điều kiện cho anh ta chiếm đoạt vợ tôi. Thành ra, mặc dù đã nhận làm bố nuôi vợ tôi trong thời gian vợ chồng tôi đang ở Hà Nội nhưng ông Hải vẫn không chịu gặp tôi. Sau khi chúng tôi chạy vào Đông Hà lánh nạn và vợ tôi trở thành con nuôi của ông NT Dũng và ông NĐ Mạnh, ông Hải lại tìm mọi cách để khiến tôi nghi ngờ vợ, qua đó hòng chia lìa vợ chồng tôi: kiếm cớ ngăn cản ông Mạnh, ông Dũng vào Đông Hà thăm vợ chồng tôi; không chu cấp cho vợ chồng tôi mặc dù vẫn nói với 2 ông kia là đã lo lắng đầy đủ cho chúng tôi, v.v.

Theo kế hoạch, ngày 22/3/2007, ông NĐ Mạnh và ông NT Dũng sẽ đích thân vào Đông Hà đón vợ chồng tôi ra Hà Nội, và lần đầu tiên tôi sẽ được diện kiến họ. Biết tin đó, Trọng liền gửi tối hậu thư cho ông HT Hải là nếu điều đó xẩy ra (đồng nghĩa với việc anh ta sẽ không bao giờ còn mơ đến việc có thể chia rẽ vợ chồng tôi và qua đó chiếm đoạt vợ tôi được nữa), anh ta sẽ tung chứng cứ phạm tội của ông Hải lên mạng. Ông Hải đã đe doạ và ép buộc vợ tôi ôm con bỏ đi, và tìm cách ngăn không cho ông Mạnh và ông Dũng vào Đông Hà đón vợ chồng tôi. Tuy nhiên, sau đó vợ tôi đã kể hết với tôi về bộ mặt thật của ông HT Hải và Trọng, cũng như chuyện cô ấy từng tham gia vào băng đảng ma tuý của ông Hải như thế nào. Ông Hải từng thú nhận với vợ tôi chuyện ông ta sát hại tay trợ lý người Quy Nhơn, Bình Định để bịt đầu mối tội ác. Tôi khuyên vợ tôi kể cho ông Mạnh và ông Dũng biết hết sự thật về ông Hải. Tuy nhiên, diễn biến sau đó lại cho thấy hoá ra cả ông Dũng và ông Mạnh đều đã bị ông Hải “trói” theo những cách thức khác nhau. Ông Dũng từng hãm hiếp một cô trinh nữ do Trọng cung cấp và bị ông Hải bố trí quay phim toàn bộ hoạt cảnh. Sau đó, để bịt đầu mối tội ác của mình, ông Dũng đã đồng ý để cho ông Hải và đàn em thủ tiêu cô gái kia. Còn ông Mạnh thì từng buôn lậu vũ khí với ông Hải. Lúc này, ông Hải chuyển toàn bộ chứng cứ phạm tội của ông Mạnh và ông Dũng cho Trọng để anh ta đe doạ và ép buộc hai ông này phải tiếp tục âm mưu lừa dối vợ chồng tôi.

Đến cuối tháng 6/2007, khi biết không thể chia rẽ được vợ chồng tôi, đồng thời lại bị công an truy lùng ráo riết, nên Trọng sang Pháp sinh sống. Anh ta đòi ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải phải cấp cho anh ta 5 tỷ USD nếu không anh ta sẽ tố cáo họ. Ba ông này nhờ vợ tôi xin Trọng “bớt” cho một ít, song Trọng không đồng ý mà nói là cho vợ tôi 2 tỷ trong số 5 tỷ USD đó.

Vợ chồng tôi dự định là tháng 10/2007 sẽ ra nước ngoài theo sự sắp xếp của Trọng. Tuy nhiên, sau đó 3 ông kia và Trọng lại tiếp tục lừa dối vợ chồng tôi. Trọng tiếp tục lừa vì anh ta vẫn chưa thôi ý định chiếm đoạt vợ tôi (trong khi chúng tôi lại không hề nghi ngờ gì anh ta cả), còn ba ông kia muốn tiếp tục lừa tôi vì sợ tôi về sau tố cáo, hoặc viết câu chuyện thành sách. Do ba ông kia vẫn tìm mọi cách chia rẽ vợ chồng tôi và ngăn cản việc tôi ra nước ngoài nên đến tối 8/11/2007, tôi quyết định để cho vợ ra Hà Nội rồi ra nước ngoài trước cùng Trọng và Thuỷ (người lúc này đã trở thành vợ của Trọng và có với anh ta một đứa con gái). Trọng hứa với vợ chồng tôi là sẽ tìm cách đưa tôi ra nước ngoài sau. Ngày 12/11/2007, tôi cũng bỏ trốn khỏi Đông Hà vì 3 ông kia bắt đầu cho người truy lùng tôi.

Trước khi vợ tôi sang Pháp vào ngày 16/11/2007, ông HT Hải đã bắt cóc con gái Trọng (lúc đó mới khoảng 7-8 tháng tuổi), vì biết Trọng rất yêu quý con gái, và giam giữ tại một ngôi nhà nằm ở một khu vực hẻo lánh thuộc tỉnh Quảng Ninh. Ông ta đánh hơi thấy Trọng lừa mình (tay Trọng này rất ma lanh, anh ta vừa lừa ba ông kia vừa lừa vợ chồng tôi). Vì thế, Trọng và Thuỷ bị kẹt lại ở Việt Nam, vợ tôi và con gái (Lê Thanh Mai, sinh ngày 2/11/2006) sang Pháp trước cùng với 1 bà giúp việc người Nghệ An. Bạn của Trọng (tên là Trinh) đón vợ con tôi ở Paris.

Thời gian này, vợ tôi lại bị chứng chảy máu não, và bệnh tình ngày càng trở nên nguy kịch. Ngày 27/11/2007, vợ tôi phẫu thuật chứng chảy máu não ở Mỹ theo sự thu xếp của ông HT Hải và Trọng, sau đó mẹ con cô ấy trở lại London (Anh). Giữa tháng 12/2007, Trọng bị đàn em của ông Hải bắt khi anh ta tìm cách tiếp cận ngôi nhà mà ông Hải đang giam giữ con gái anh ta.

Chờ mãi không thấy tin tức gì từ Trọng, cuối tháng 1/2008, vợ tôi tìm cách về lại Việt Nam (đầu tháng 12/2007, sau khi phẫu thuật xong một thời gian ngắn, vì lo lắng cho tôi nên vợ tôi cũng tìm cách trốn về Việt Nam, nhưng sau đó bệnh tái phát nên lại phải sang London để điều trị tiếp). Ngày 30/1/2008, tôi cũng từ nơi ẩn náu ở Nha Trang về đến Đông Hà để đoàn tụ với vợ con.

Tôi dự định là ra Tết Mậu Tý 2008 sẽ ra Hà Nội để tố cáo tội ác của ông NĐ Mạnh, ông NT Dũng và ông HT Hải. Tuy nhiên, sáng 4/1 AL (10/2/2008), Trọng đột nhiên liên lạc với vợ tôi. Ngày 4/2/2008, con gái Trọng đã chết trên tay anh ta trong sự giam cầm của ông Hải. Đàn em của ông Hải cho phép Trọng chôn con gái mình. Anh ta nhân đó đánh nhau với hai tên vệ sỹ, cướp được súng và bắn chết hai tên này rồi chạy trốn. Anh ta đề nghị tôi hợp tác với anh ta, đòi 3 ông kia trả cho một số tiền lớn (2 tỷ USD), chúng tôi sẽ nhận một nửa và ra nước ngoài trước.

Tuy nhiên, ngày 13/3/2008, sau khi nhận được tiền từ ông Hải, Trọng đã ra nước ngoài, lộ rõ bộ mặt thật của mình (lừa dối chúng tôi bấy lâu trong khi chúng tôi vẫn cả tin, không hay biết). Lúc này, vợ tôi mới thú thật với tôi về tội lỗi của cô ấy: một vụ án mạng mà cô ấy là người thực hiện dưới sự đe doạ và ép buộc của Trọng, toàn bộ vụ việc bị Trọng bố trí máy quay phim ghi lại. Trước khi ra nước ngoài, Trọng đã giao các chứng cứ phạm tội của vợ tôi cho ông Hải, hòng khống chế và đe doạ cô ấy.

Tôi vẫn cố thuyết phục vợ tội cáo tội ác của ông NĐ Mạnh, ông NT Dũng và ông HT Hải, vừa để chuộc lại lỗi lầm cho vợ, vừa để vạch mặt tội ác của họ, và vừa để buộc họ phải chịu trách nhiệm trước thảm cảnh mà họ đã gây ra cho chúng tôi.

Sau khi đã thử dùng bài “rung cây doạ khỉ”, nhận ra sự lo sợ của họ cũng như tâm địa độc ác của họ qua việc cứ cố tình lừa dối chúng tôi hết lần này đến lần khác mặc dù tôi đã cho họ nhiều cơ hội chuộc lỗi, ngày 21/4/2008, tôi bắt đầu gửi thư tố cáo tội ác của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải đến các cơ quan hữu quan ở Việt Nam và nhiều địa chỉ email khác qua mạng Internet.


÷


Giữa tháng 5/2008, tôi bán nhà ở Hà Nội. Ngày 20/5/2008, tôi chuyển vào Đông Hà sinh sống. Đầu tháng 6/2008, tôi mua nhà ở hẻm 211, Lý Thường Kiệt, Đông Hà (giá 200 triệu).

Lúc này, cô Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1973, người trước đây thường cho vợ tôi vay góp rủ vợ tôi cùng cho vay trả góp. Vợ tôi rất vui và hạnh phúc, bệnh tật đỡ dần. Cô ấy còn tranh thủ mua gom rượu ngoại bán cho các nhà hàng. Thỉnh thoảng, vợ tôi nhờ ông Ngô Quận, Đại tá, Phó Giám đốc Công an Quảng Trị, giúp đỡ.

Ngày 5/8/2008, Công an Quảng Trị mời tôi lên làm việc (người chủ trì buổi làm việc với tôi là Trung tá Nguyên, quê ở Hưng Nguyên, Nghệ An). Tôi đã trực tiếp ký vào từng trang của thư tố cáo do họ in ra sẵn. Trước đó, có hai viên sỹ quan công an – một người là Nguyễn Minh Đông, hiện nay là thượng uý, Phó CA P5, Đông Hà – đã điều tra sơ qua về vợ chồng tôi. Họ còn đi theo viên CSKV Lê Phước Giải đến tận nhà tôi để “tìm hiểu” xem tôi có “bị” gì không.

Sau khi tôi làm việc với Công an Quảng Trị, ông Nguyễn Minh Triết bí mật ủng hộ chúng tôi tố cáo tiếp. Từ giữa tháng 8/2008, ông Triết đã chỉ đạo (qua ông Ngô Quận, Đại tá, PGĐ Công an Quảng Trị) tạo điều kiện cho vợ chồng tôi buôn rượu lậu từ Lào về Việt Nam qua cửa khẩu Lao Bảo. Người hỗ trợ vợ tôi buôn rượu là cô Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1973, cũng là người mà trước đấy vợ tôi cho vay trả góp cùng. Vì thời gian này Công an đang ngấm ngầm theo dõi vợ chồng tôi nên để cho phía Công an thấy là chúng tôi không có tiền (đồng nghĩa với việc không có ai đứng sau lưng chúng tôi cả), ông Ngô Quận đã chỉ đạo để vợ chồng tôi gửi tiền bạc của mình vào các tài khoản của Hương. (Ý đồ ban đầu của ông Triết là muốn cho chúng tôi có nhiều tiền thật nhanh để người ta tin vào câu chuyện; tuy nhiên, sau khi ba ông Mạnh-Dũng-Hải “tố” là có người đứng đằng sau lưng chúng tôi, ông Triết lại để chúng tôi rơi vào cảnh khốn khó cho người ta khỏi nghi ngờ ông.) Ngoài ông Ngô Quận, phía Công an Quảng Trị còn có hai lãnh đạo nữa tham gia vào âm mưu của ông Triết là ông Ngô Văn Tiếu, Đại tá, Giám đốc Công an tỉnh (về sau là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh CSCĐ) và ông Nguyễn Thanh Thắng, Đại tá, PGĐ CA tỉnh.

Đầu năm 2009, Công an bắt đầu điều tra bí mật. Ban Chuyên án do Bộ Chính trị chỉ định, báo cáo trực tiếp với Bộ Chính trị, chứ không thông qua những trình tự pháp lý thông thường. Ông Lê Hồng Anh, người có dính líu trong phần đầu câu chuyện và đã dũng cảm thừa nhận sai phạm của mình, được Bộ Chính trị giao phụ trách Ban Chuyên án.

Đến ngày 12/3/2009, quá bức xúc vì theo âm mưu của ông NM Triết mà chúng tôi phải bán nhà bán cửa và sống tạm bợ ở nhà bà ngoại vợ (để Bộ Chính trị và công an không nghi ngờ ông ta), đồng thời nhận được sự “khích lệ” từ một bức thư mà Ban Chuyên án gửi cho tôi vào ngày 5/3/2009 (Nếu bức thư này được tố cáo thêm lần nữa thì đất nước này hoàn toàn sụp đổ, không thể cứu vãn được nữa…), cũng như từ câu nói trước đó của ông HT Hải với ông Ngô Quận (Bây giờ mà nó tung thư tố cáo lên lần nữa thì gí súng vào đầu tự tử do rồi), trong khi vụ việc tiến triển rất chậm chạp (ông Triết coi như đã không thực hiện đúng cam kết với chúng tôi), nên tôi quyết định gửi thư tố cáo qua mạng lần thứ 2 đến các cơ quan hữu quan cùng hàng loạt địa chỉ email khác.

Trái với kỳ vọng của tôi, lần gửi thư tố cáo này không có tác dụng đáng kể, câu chuyện quá khủng khiếp và ly kỳ nên ít người dám tin. Bộ Chính trị quyết định giải tán Ban Chuyên án cũ (do kém năng lực) và thành lập một Ban Chuyên án mới.

Đến cuối tháng 6, đầu tháng 7/2009, Ban Chuyên án đã kết thúc điều tra. Kết quả cho thấy đúng như những gì chúng tôi tố cáo. Ông Triết cũng phạm tội, dù nhẹ hơn 3 ông kia. Các cuộc đấu đá tranh giành nội bộ diễn ra để thế chỗ ông Mạnh, ông Dũng.

Thấy vụ việc lâm vào bế tắc do sự đấu đá giằng co của những người trong Bộ Chính trị, cuối tháng 8/2009, tôi lại gửi thư tố cáo đến các cơ quan hữu quan 3 lần liên tiếp (lần thứ 3, 4 & 5: ngày 20/8, 27/8 và 31/8/2009). Lập tức, ông Triết chỉ đạo ông Quận lấy toàn bộ số tiền của chúng tôi, khi đó đang gửi ở tài khoản của cô Nguyễn Thị Hương, về các tài khoản của mình, hòng dễ bề khống chế chúng tôi.

Đầu tháng 9/2009, một số ĐSQ nước ngoài ở Hà Nội vào Quảng Trị gặp vợ tôi để tìm hiểu thực hư vụ việc (Mỹ, Trung Quốc, Anh…). Tuy nhiên, theo chỉ đạo của ông NM Triết, vợ tôi nói với họ là trong câu chuyện chỉ có một phần sự thật.

Ban Chuyên án đòi đưa vụ việc ra Ban Chấp hành Trung ương (họ cũng muốn ‘vòi’ tiền của Nhà nước). Nếu đưa ra công khai trong BCHTW thì rất nhiều người bị mất chức, kể cả ông Triết. Số tiền đó chắc chắn là phải tương đương với số mà người ta định “đền bù” cho vợ chồng tôi, nhưng ngân quỹ của Đảng đã bị ông Nông Đức Mạnh và một số người nữa (trong đó có ông Nguyễn Phú Trọng) vơ vét sạch. Vì thế, đến tháng 10/2009, ông Triết đã mua số chứng cứ này từ Ban Chuyên án. Vụ việc coi như bị ém nhẹm, thậm chí còn không được xử lý trong nội bộ Bộ Chính trị.

Ông NM Triết ủng hộ chúng tôi tố cáo tiếp để sao cho các phe phái khác nhau buộc phải thoả hiệp và Bộ Chính trị phải giao chức vụ của ông Mạnh cho ông ta.

Đến ngày 26/11/2009, ông NM Triết được Bộ Chính trị chính thức trao cho chức vụ cao nhất (ông NP Trọng vị trí thứ hai, và ông TT Sang nắm giữ vị trí thứ 3). Tuy nhiên, sau đấy người ta lại không thống nhất được phương án xử lý đối với tôi. Trong khi câu chuyện của tôi thì đã um ra (cho đến ngày 23/12/2009, tôi tung lên mạng 20 lần, đến hàng ngàn địa chỉ email trong và ngoài nước). Người ta sợ cho tôi tiền thì tôi sẽ ra nước ngoài rồi tố cáo tiếp. Ông Triết quá cầu toàn, thiếu quyết đoán, nên dần dần để vụ việc vượt ra khỏi tầm kiểm soát của mình, và của cả Bộ Chính trị.

Thất vọng trước thái độ của ông NM Triết (đặt lợi ích cá nhân lên trên vận mệnh nước nhà), tôi tiếp tục gửi thư tố cáo qua mạng Internet, cho đến lần thứ 20 là vào ngày 23/12/2009. Tình hình ở Hà Nội hết sức rối ren, Trung Quốc đe doạ sẽ tấn công Trường Sa nếu chế độ này sụp đổ. Nhưng Bộ Chính trị vẫn không cho bắt tôi, vì tôi tố cáo đúng sự thật và vì sau lưng tôi có ông Triết cùng một số người nữa ủng hộ. Vụ tố cáo của tôi liên quan đến các uỷ viên Bộ Chính trị, nên phải có ý kiến của Bộ Chính trị trước khi điều tra, bắt hay khởi tố tôi.

Ngày 25/12/2009, một nhóm sỹ quan an ninh cao cấp của Bộ Công an đã chỉ đạo một nhóm Công an Quảng Trị bắt “bắt quả tang” tôi ngoài tiệm Internet với tội danh “tuyên truyền chống phá Nhà nước”, đặt Bộ Chính trị vào thế đã rồi (tức là tôi bị “bắt quả tang” nên không cần thỉnh thị ý kiến Bộ Chính trị). Sau khi bị bắt, tôi đã khai ra vụ tố cáo cũng như vai trò của ông NM Triết (đến ngày 31/12/2009, sau khi Công an Quảng Trị ra lệnh khởi tố vụ án và lệnh tạm giam đối với tôi – trước đó là 2 lệnh tạm giữ – tôi mới khai ra ông Triết).

Ông NM Triết, lúc này lại quay sang liên minh với các ông NĐ Mạnh, NT Dũng và HT Hải, trước sự non nớt, thiếu hiểu biết của vợ tôi, đã đe doạ và ép buộc cô ấy phải khai với công an là tôi bị bệnh “tâm thần hoang tưởng” (do họ đang nắm trong tay bằng chứng phạm tội của vợ tôi). Về phía tôi, vì không có bằng chứng gì trong tay, lại nghĩ là mình cần phải dành đường lùi cho những người trong cuộc, nhất là khi mà họ đã nhiều lần hứa hẹn là sẽ cải cách thể chế trước sự thối nát khủng khiếp của hệ thống, nên không còn cách nào khác là phải chấp nhận “vị thế” của một “bệnh nhân tâm thần”.

Ngày 4/5/2010, Công an Quảng Trị đưa tôi vào Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng để “điều trị bắt buộc” và đến ngày 24/8/2010, tôi được thả tự do.


÷


Trong thời gian tôi bị bắt và sau khi mới được thả, ông NM Triết cam kết là hết năm 2010 sẽ trả lại tiền cho chúng tôi. Tuy nhiên, hết năm 2010, rồi đến Tết 2011, ông ta vẫn không chịu trả cho vợ chồng tôi một đồng nào để sinh sống, khiến chúng tôi rơi vào cảnh cùng cực. Trước tình hình đó, tôi dự định là sang tháng 2 âm lịch năm Tân Mão (2011) sẽ tiếp tục gửi thư tố cáo qua mạng đến các cơ quan hữu quan, ngoài THƯ TỐ CÁO I đối với 3 ông NĐ Mạnh, NT Dũng, HT Hải là THƯ TỐ CÁO II đối với ông NM Triết. Tài liệu quan trọng kèm theo là nhật ký của tôi kể từ khi tôi chuyển vào Đông Hà tháng 5/2008 cho đến khi tôi bị bắt rồi được thả ra vào ngày 24/8/2010 và Bản Cam Đoan của vợ tôi, thừa nhận vai trò chính của cô ấy trong câu chuyện và xác nhận tôi là người hoàn toàn bình thường.

Dường như biết được việc tôi chuẩn bị gửi thư tố cáo nên nhóm sỹ quan an ninh cao cấp đứng đằng sau vụ bắt giữ tôi vào ngày 25/12/2009 đã bắn tín hiệu đến Bộ Chính trị là nếu tôi tiếp tục tố cáo thì họ sẽ ủng hộ tôi. BCT quyết định buộc ông NM Triết phải làm “con dê tế thần” – nghĩa là ông Triết thừa nhận việc đứng đằng sau vụ tôi “vu khống các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước”, và coi như ba ông kia (ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Hoàng Trung Hải) không phạm tội gì cả. Dĩ nhiên, để nhóm sỹ quan công an này đồng ý “xử êm” vụ việc, những người liên quan sẽ buộc phải chi một số tiền lớn để mua sự im lặng của họ (hoặc Bộ Chính trị phải chi từ ngân quỹ bí mật của Đảng). Điều đó cũng cho thấy mục đích “cao cả” của việc nhóm này chỉ đạo bắt giữ tôi vào ngày 25/12/2009.

Sáng 3/3/2011, ông NM Triết gọi điện trực tiếp vào số máy của vợ tôi, thông báo là ngày 10/3/2011, người ta sẽ mời vợ tôi lên trụ sở Công an tỉnh Quảng Trị để làm việc. Ông Triết nói, trước mắt ông sẽ trả lại số tiền của vợ chồng tôi, còn số tiền mà ông hứa cho chúng tôi thì “cho chú xin hoãn”. Ông cũng nói là chúng tôi sẽ phải viết cam kết là không tố cáo nữa, nếu tố cáo thì sẽ bị xử lý theo pháp luật.

Sau đó, vợ tôi làm việc với một số sỹ quan công an (từ Hà Nội vào và ở Quảng Trị) về số tiền của chúng tôi qua sổ sách của Nguyễn Thị Hương. Tuy nhiên, do ông NM Triết cứ lần lữa việc chuyển trả tiền cho chúng tôi, đồng thời lại nhận thấy Bộ Chính trị còn tiếp tục đấu đá nhau và biết được thái độ lo sợ của những người trong cuộc, nên ngày 21/3/2011, tôi lại gửi thư tố cáo đến tất cả các cơ quan hữu quan trong nước cùng hàng ngàn địa chỉ email khác (nếu tính từ lần đầu tiên ngày 21/4/2008 thì đây là lần thứ 21).

Cho đến ngày 27/7/2011, tôi gửi thư tố cáo qua mạng thêm 36 lần nữa. Các phe phái vẫn cứ đấu đá nhau, nhưng không hề có dấu hiệu nào cho thấy người ta sẽ giải quyết vụ việc. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XIII, ông NT Dũng vẫn tiếp tục được bầu làm Thủ tướng và ông HT Hải lại tiếp tục là Phó TT.

Trong thời gian đó, nhiều đoàn sỹ quan cao cấp của Bộ Công an và từ một số tỉnh thành khác đã đến Quảng Trị gặp vợ tôi tìm hiểu về vụ việc. Họ đã động viên chúng tôi cả vật chất lẫn tinh thần. Qua tinh thần của các cuộc gặp đó, tôi biết là người ta vẫn đổ hết tội lên đầu ông NM Triết, và coi như ông NĐ Mạnh, ông NT Dũng, ông HT Hải không phạm tội gì. (Thật nực cười, chẳng lẽ ông NM Triết lại ngu dại đến mức ủng hộ chúng tôi “vu khống” người khác?!)

Đến cuối tháng 10/2011, sau khi tôi đã công bố hai cuốn sách học thuật do tôi dịch, đăng một bài viết mới (“Chính phủ và chính sách”) trên một số trang mạng uy tín trong và ngoài nước, và phổ biến bức thư ngỏ gửi ĐBQH – nhà sử học Dương Trung Quốc, người ta bắt đầu có những động thái nhằm vào những kẻ mà tôi tố cáo. Một số đoàn sỹ quan công an từ Hà Nội vào Đông Hà gặp vợ tôi để điều tra về tội ác của các ông NĐ Mạnh, NT Dũng và HT Hải cũng như ông NM Triết. Tuy nhiên, các nhóm sỹ quan công an này đều chỉ lấy lời khai của vợ tôi để tìm cách “làm tiền” những những kẻ bị chúng tôi tố cáo.

Ngày 25/10/2011, vợ tôi bay ra Hà Nội và sáng hôm sau làm việc với một đoàn 10 người gồm 8 sỹ quan công an và hai người nước ngoài tại khách sạn Daewoo.



Ngày 16/11/2011, tôi đã đến Phòng Thanh tra, Công an Quảng Trị, gửi đơn tố cáo trực tiếp, kèm theo Bản Cam Đoan của vợ tôi. Người tiếp nhận đơn thư của tôi là Thượng tá Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Phó Phòng Thanh tra, và thượng uý Nguyễn Minh Chính, cán bộ Phòng Thanh tra.

Ngày 23/3/2012, ngày 11/4/2012 và ngày 16/4/2012, tôi cũng chủ động đến gặp họ để làm việc thêm với họ về đơn thư tố cáo, đồng thời để thúc đẩy họ sớm trả lời đơn thư của tôi. Tuy nhiên, nhà chức trách vẫn không có một động thái chính thức nào để giải quyết vụ việc.


÷


Ngày 27/4/2012, tôi rời Đông Hà ra Hà Nội.

Ngày 5/5/2012, tôi gặp một số cụ lão thành cách mạng ở Hà Nội, những người đã tiếp cận tôi để tìm hiểu về vụ tố cáo. Lần đầu tiên tôi được các cụ cho biết Hoàng Trung Hải là người Hán. Bố đẻ ông ta tên là Sì Sói, sinh và lớn lên tại Long Khê, Chương Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc.

Ngày 13/5/2012, tôi gặp lại các cụ LTCM. Lần này họ trao cho tôi bức Tâm Huyết Thư đề ngày 7.5.2007 của một số cán bộ đảng viên đã và đang công tác tại Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ và một số cơ quan trọng yếu khác của Đảng CSVN tố cáo ông Hoàng Trung Hải là người Hán khai man lý lịch. Ngay hôm sau, tôi đã tung bức Tâm Huyết Thư đó lên mạng.

Ngày 3/6/2012, tôi gặp ĐBQH Dương Trung Quốc tại nhà riêng của ông để trao đổi về vụ tố cáo. Ông cho biết là ông đã biết về vụ tố cáo đã lâu, và nó đã tràn lan trên mạng.

Ngày 6/6/2012, tôi trực tiếp gửi cho ĐBQH Dương Trung Quốc một bộ đơn thư tố cáo.




Ngày 19/6/2012, ĐBQH Dương Trung Quốc trao cho tôi văn bản xác nhận là đã chuyển đơn thư của tôi cho Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng.



Ngày 26/10/2012, trong cuộc trao đổi với tôi về vụ tố cáo, ĐBQH Dương Trung Quốc thông báo cho tôi rằng ông Chủ tịch QH cho biết là "đang xem xét" và nói đây là "vụ việc phức tạp lắm".  

Ngày 24/1/2013, khi tôi đang làm công nhân tại Khu Công nghiệp Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên Lần thì Công an Hà Nội và Công an Hưng Yên đã cưỡng chế tôi vào trại tâm thần trá hình mang tên “Trung tâm Bảo trợ Xã hội II” tại huyện Ứng Hoà, Hà Nội. Sau 12 ngày giam giữ trái phép, dưới áp lực của dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là các tổ chức nhân quyền quốc tế, nhà cầm quyền đã buộc phải trả tự do cho tôi vào ngày 5/2/2013.



Trong bản phúc trình thường niên công bố ngày 27/2/2014, Lê Anh Hùng là cái tên đầu tiên mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu trong danh sách những người bị nhà cầm quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền năm 2013 (https://goo.gl/aw19Hu).

Sau nhiều lần đốc thúc, ngày 18/7/2013, tức hơn một năm kể từ khi tôi gửi đơn thư tố cáo cho ông, ĐBQH Dương Trung Quốc đã chuyển cho tôi một văn bản bị cắt đầu cắt đuôi mà ông nói là của Bộ Công an trả lời Quốc hội về đơn thư của tôi. Văn bản trả lời đó đã chà đạp lên pháp luật khi không đếm xỉa gì đến Bản Cam Đoan viết tay do vợ của tôi viết:


Ngày 16/9/2013, tôi lại gửi đơn thư tố cáo mới cho ĐBQH Dương Trung Quốc, lần này do cả tôi và vợ tôi là Lê Thị Phương Anh ký:


Ngày 15/5/2014, tức 8 tháng sau khi chúng tôi gửi đơn thư cho ĐBQH Dương Trung Quốc mà không nhận được câu trả lời của cơ quan chức năng theo đúng luật định (quá thời hạn ít nhất là 5 tháng), Lê Thị Phương Anh bị Công an Đồng Nai bắt giam trái phép và bị kết án 1 năm tù giam theo Điều 258 BLHS. Theo Kết luận điều tra, Cáo trạng và Bản án của các cơ quan tố tụng tỉnh Đồng Nai thì cô Lê Thị Phương Anh khai rằng tôi đã ép buộc cô vi phạm pháp luật (vu khống các vị lãnh đạo đảng và nhà nước, v.v.). Tuy nhiên, tất cả những lời khai đó đều chỉ là lời khai một chiều, chưa có sự đối chất giữa tôi và cô Phương Anh, nên không thể dựa vào đó để kết tội tôi hay kết luận về vụ tố cáo.

Ngày 4/11/2015, trang Bauxite Việt Nam, diễn đàn của giới trí thức phản tỉnh trong nước, đã đăng bản “Yêu cầu giải quyết đơn thư tố cáo lãnh đạo Đảng và Nhà nước” của tôi, trong đó tôi đã lập luận cho thấy các cơ quan chức năng Việt Nam đã ngồi xổm trên pháp luật trong vụ tố cáo của tôi như thế nào.

Ngày 23/3/2017, tôi đã đến văn phòng của ĐBQH Dương Trung Quốc để hỏi về đơn thư tố cáo của tôi, nhưng không gặp. Tôi gọi điện và nhắn tin cho ông nhưng đều không được ông hồi âm.



Xem thêm:

(1) “Bị khủng bố đánh đập vì tố cáo lãnh đạo” trên RFA ngày 15/10/2013 – https://goo.gl/7geVNJ; (2) “Thư ngỏ gửi ĐBQH Dương Trung Quốc về vụ tố cáo Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải” trên VOA ngày 28/3/2016 – https://goo.gl/b04p9q; (3) “Tài liệu tố cáo Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang bán nước” – https://goo.gl/lcZ1zD; (4) Băng ghi âm cuộc trao đổi giữa tôi, cô Lê Thị Phương Anh, ĐBQH Dương Trung Quốc và “luật sư” của ông vào ngày 22/10/2013: https://soundcloud.com/l-anh-h-ng-2/trao-doi-voi-dbqh-dtq-22-10. Chỉ vài giây sau khi rời khỏi văn phòng làm việc của ông Dương Trung Quốc, cô Phương Anh đã khẳng định ngay với tôi rằng: “Thằng nớ không phải luật sư mô. Thằng nớ là người của ông [Hoàng Trung] Hải chứ không phải luật sư mô” (phút 32:30 của đoạn ghi âm). Trong băng ghi âm, cô Phương Anh đã nhiều lần nhắc đến tên Hoàng Trung Hải.

Suốt 4 năm qua, tôi là cộng tác viên thường xuyên của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ – xem trang blog cá nhân của tôi trên VOA tại địa chỉ: http://www.voatiengviet.com/author/23311.html.

Trang 3 Bản án số 12/2015/HSST [https://drive.google.com/drive/folders/0B4iV0v_Snhnnc1pCUWZxRzYtc28]   ngày 12/2/2015 của Toà án Nhân dân Đồng Nai đã ghi rõ là  “đến tháng 8/2010 thì [Lê Anh Hùng] chữa bệnh xong”. Nghĩa là, ngay cả khi tôi có bị “tâm thần hoang tưởng” thì tôi cũng đã chữa bệnh xong và đủ năng lực chịu trách nhiệm hành vi trước pháp luật. Chính vì tôi đã đủ năng lực trách nhiệm hành vi nên Công an Đồng Nai cũng như Công an Hà Nội đã nhiều lần gửi “giấy mời” hoặc “giấy triệu tập” tôi đến làm việc.

Tại sao Công an có thể triệu tập tôi để “làm rõ về các bài viết đăng tải trên Internet” nhưng lại không mời tôi đến để làm rõ và giải quyết vụ tố cáo của tôi?

Tôi khẩn thiết yêu cầu các cơ quan chức năng giải quyết đơn thư tố cáo mà tôi đã gửi cho ĐBQH Dương Trung Quốc vào ngày 16/9/2013 theo đúng quy định của pháp luật. Nếu tôi tố cáo đúng thì phải xử lý những người bị tố cáo; nếu tôi tố cáo sai thì phải xử tôi về tội vu khống.

Hà Nội, ngày 21/5/2017



Lê Anh Hùng


Mobile Phone: 01292091829; Email: [email protected] Blog: www.leanhhung.comhttp://www.voatiengviet.com/section/le-anh-hung-blog-page/5916.html Facebook: www.facebook.com/lehunglpa; Skype: lehunglpa
Source: Lê Anh Hùng

© 2016 About Us | Terms & Conditions