Việt Nam: Đại Họa Diệt Vong Cận Kề


 (Muong Giang)         Năm 2006, Cao Guangjing, phó Giám đốc Quản lý công trình thủy điện của Hoa Lục, đã tuyên bố với báo chí trong và ngoài nước, rằng Tàu  Cộng sắp hoàn thành Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp, lớn nhất thế giới, trên sông Dương Tử, và hãnh diện xác nhận : Ðây là một kỳ quan cũng như biểu tượng kinh tế của Tàu Khựa, trong thế kỷ XXI.              Có điều lạ là trong lần khoe tốt này, ngay chính đương sự cũng không dám khẳng định, công dụng của đập thủy điện trên tốt xấu thế nào, mà chỉ nói bâng quơ rằng phải chờ tới những ba chục năm sau, hay đúng hơn phải coi nó có thể ngăn chống được sự tàn phá hằng năm của lũ lụt thường trực trên sông Dương Tử, lúc đó mới có thể kết luận được.               Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay, ai cũng nói do Tần Thủy Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa Giáng sinh, từ lâu đã được đánh giá là một công trình kiến trúc vĩ đại "oành cháng", chẳng những của nước Tàu Phù, mà còn là của nhân loại nữa. Tuy nhiên huyền thoại này, vào năm 1969 đã bị đánh đổ, bởi Arthur Waldron , Giáo sư Khảo cổ tại Trung tâm Nghiên cứu về Ðông Á, thuộc Trường Ðại học Harvard (Hoa Kỳ).               Trong tác phẩm ‘ The great wall of China ‘ , trình bày những nghiên cứu lịch sử, và khảo cổ tại chổ sau nhiều năm đi khắp nước Tàu, cuối cùng tác giả đã khẳng định rằng: Vạn Lý Trường Thành, đã tồn tại suốt bao chục thế kỷ qua, thực chất chỉ là một huyền thoại mà thôi ! Theo ông, từ năm 700 trước Tây lịch tới nay, khắp nước Tàu Phù đã có rất nhiều thành lũy được xây dựng rãi rác mọi nơi, mọi thời. Nên câu chuyện bức tường thành được kiến trúc duy nhất thời nhà Tần, là không đúng sự thật. Ðể chứng minh,tác giả dựa vào lịch sử Tàu Chệt, từ thời nhà Hán cho tới thế kỷ thứ XIII, khi Nhà Nam Tống bị quân Mông Cổ xâm lăng, và tiêu diệt, cho thấy: Tàu lúc đó không hề có một bức tường thành nào cả, nên đã không thể ngăn cản được vó ngựa trường chinh của Thành Các Tư Hản ở phương Bắc. Ngoài ra ông còn dựa vào các tác phẩm văn chương cổ điển của xứ Tàu qua bao thời đại, xác nhận các văn nhân lúc đó, chẳng hề xử dụng tới danh từ nào đồng nghĩa với ‘ The great wall’, mà Tây phương chỉ mới dùng sau này.               Ngay đến tài liệu phòng thủ của nhà Minh (1368-1644), cũng không hề nhắc tới Vạn Lý Trường Thành. Mãi đến nửa thế kỷ thứ XVI, trước nguy cơ đe dọa của các dân tộc du mục phuơng Bắc như Mãn, Mông Cổ, Tây Tạng.. đã làm cho các Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, mới nghĩ tới việc xây dựng Trường Thành, mục đích phân biệt ranh giới địa lý, và nhân vân của Trung Nguyên với các dân tộc trên. Ðó chính là hình ảnh mà người Tây phương đầu tiên đã mang tới cho thế giới bên ngoài, hồi thế kỷ XVIII và phổ biến tới ngày nay. Còn huyền thoại về Vạn Lý Trường Thành do Tần Thủy Hoàng xây dựng, theo Waldron cũng không phải phát xuất từ sách vở của người Tàu, mà được Mao Tôn Cương, hồi thế kỷ XIX do các nhà thám hiểm và khảo cổ Châu Âu. Riêng nhũng ghi chú về Trường Thành, trên bản đồ mà Bắc Kinh phổ biến hiện nay, cũng là sản phẩm của các Giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, thuộc Dòng Tên, vào thời Nhà Thanh (1644-1912) . Tóm lại, theo các nhà nghiên cứu trong hội nghị quốc tế vừa được tổ chức tại Bắc Kinh, thì Vạn Lý Trường Thành , phần lớn được xây dựng từ thời Nhà Minh. Còn quan niệm cho rằng nhửng thành lũy thời Chiến Quốc, được nhà Tần nối lại với nhau, thành bức Trường Thành, ngày nay kể cả người Tàu vẫn nghi ngờ về phương diện khảo cổ, còn các sử gia thì nói đây là sự giả định, vì không có tài liệu nào minh chứng.               Nhưng đó là chuyện của nước Tàu, nó chỉ liên quan đến chúng ta, là liệu đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử, có ảnh hưởng gì tới những đập thủy điện khác, mà Trung Cộng đã xây dựng trên thượng nguồn của sông MeKong và Hồng Hà, trong tỉnh Vân Nam, trước khi chảy vào lãnh thổ nước ta, được đánh giá như là một sự khủng bố trắng trợn, đối với vận mệnh của Dân tộc VN. Ðây là nguy cơ trước mắt, được cả thế giới thấy rõ, cho dù Ðảng VC đang đô hộ cả nước, vì sợ Tàu, nên đã cố tình bưng bít nội vụ một cách công khai.                Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã căm thù đến tận xương tủy, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn của thân phận nhược tiểu Việt Nam, trong biển máu lệ nước mắt thống hận. Bởi vì cùng lúc, giặc Tàu còn gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc nhất là đang xữ dụng những đập thủy điện trên các dòng sông phát nguyên trên đất Tàu, chảy vào Việt Nam, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên quan  tới sự sống còn của dân tộc Việt.               Ai có thể ngăn được sự phẩn uất , trước lời tuyên bố xấc xược, và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên Nghiên cứu của Trung Cộng, về việc khai thác sông Mekong: ‘ Ðây là đất nước Tàu, nên muốn làm gì cũng được , ai dám ngăn cản ????‘.               Mới đây báo chí tại Trung Cộng đã đồng loạt đăng tải sự lên tiếng của các Chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Ðại học về môn đia chất là Yuan Aiguo. Theo họ thì tình trạng ô nhiễm đang xãy ra trên sông Dương Tử rất nguy kich, ngoài việc gây bệnh ung thư vì nước uống, dòng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại, và cả xác tàu thuyền bị chìm. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh, và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng bít nhưng thảm trạng cũng đã bị phanh phui trên dòng sông Tùng Hoa.               Xem như vậy làm sao các dòng sông thiêng của Việt Nam như Hồng Hà, Ðà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cưu Long, đều phát xuất từ bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lãnh thổ chúng ta, chắc chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu Phù, và thông báo tình trạng ô nhiểm nguy kịch chết người, để đồng bào cả nước biết., một sự kiện đáng làm trước hết, hơn là phung phí ngân khố quốc gia, để các khứa Lãnh tụ, và Ca sĩ quốc doanh xuất ngoại làm trò cười cho đồng bào tị nạn khắp nơi trên thế giới.   1- ÐẬP THỦY ÐIỆN : VŨ KHÍ MÔI SINH CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG :               Giang Nam là tên gọi của lưu vực hạ nguồn sông Dương Tử, do nhà Thanh (1644-1912) đặt ra, gồm các tỉnh Giang Tây, Giang Tô và Triết Giang. Miền này thời Ðường,Tống được gọi là Giang Châu, nguyên là đất đai của Bách Việt (Ngô Việt, Mân Việt,Âu Việt và Lạc Việt..), thủ công tinh xảo, dân trí thanh lịch, non nước hữu tình.               Sông Dương Tử còn có tên là Trường Giang, đứng thứ ba trên thế giới sau sông Amazon (Nam Mỹ) và sông Nil (Ðông Phi), có chiều dài 6380km, phát nguyên tại vùng rừng núi Thanh Hải (Tây Tạng), từ trên độ cao 6600m, chảy qua phía tây Tứ Xuyên, xuống phía bắc Vân Nam, rồi đổi hướng chảy ngược lên phía đông Tỉnh Tứ Xuyên , ngang qua các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô và ra Biển Ðông tại Hoàng Hải. Nếu tính luôn các phụ lưu, chi nhánh chằng chịt khắp miền Hoa Trung, thì chiều dài của sông Dương Tử lên tới 80.000 km, với hơn 12 triệu dân, gồm 55 sắc tộc, sinh sống ở hai bên bờ sông với đủ nghề.               Trên thượng nguồn, sông Dương Tử có 3 khe núi lớn gồm 25 thác đổ, nhiều nơi nước chảy xiết nhất là vào mùa mưa, khiến cho các ghe thuyền xuôi ngược dễ bị chìm vì đá ngầm. Ðó là hẽm Kingtanxia dài 5km, hẽm Wuxia dài 25km, và hẽm Xilingxia dài 47km., tuy ngày nay đã được nạo vét nhưng tàu qua lại vẫn phải có hoa tiêu hướng dẫn, để tránh nguy hiểm.               Lưu vực sông Dương Tử hiện nay có hơn 400 triệu người sinh sống. Ngoài ra vùng này còn có 5 hồ lớn, thường được nhắc nhớ trong các tác phẩm thơ văn của Tàu. Phân Dương Hồ, chứa nước ngọt , rộng tới 5000 km2, nằm trong tỉnh Giang Tây, gần thành phố Vũ Hán. Ðộng Ðình Hồ có các sông Tiêu và Tương đổ nưóc vào và thông với Trường Giang qua sông Hán. Hồ nằm phía tây tỉnh Hồ Nam,nổi tiếng với Nhạc Dương Lầu, măng tre Thần Châu và quít ngọt Ðộng Ðình Hồng. Thái Hồ chứa nước mặn nằm giữa hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây. Sào Hồ và Tây Hồ .   + ÐẬP THỦY ÐIỆN TAM HIỆP TRÊN SÔNG DƯƠNG TỬ :               Tháng 12-1994, Trung Cộng chính thức khởi công xây dựng Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp (Three Gorges Dam), trên khúc sông Dương Tử , chảy trong tỉnh Hồ Bắc, vừa để khống chế nạn lụt hàng năm, đồng thời xây dựng một nhà máy thủy điện với công suất tổng cộng lên tới 12.000 MW. Ðể thực hiện công trình trên, đảng Cộng sản đã đuổi hơn 1,5 triệu người dân bản địa, đồng thời làm xáo trộn sinh hoạt của 20 thành phố lớn nhỏ trong vùng.               Tam Hiệp, địa điểm được chọn để xây dựng đập thủy điện, là tên một khúc sông Dương Tử dài hơn 200km, từ phía tây tỉnh Tứ Xuyên, chảy qua phía đông tỉnh Hồ Bắc, được coi như điểm nối của vùng thung lũng Tứ Xuyên với các đồng bằng miền Hoa-Trung, phía dưới hạ nguồn. Khúc sông này chảy qua ba hẽm núi lớn và 25 thác đổ. Theo nhận xét của nhiều bậc thức giả trong và ngoài nước, thì dự án Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp tuy đã được manh nha từ thời Dân Quốc, do Tôn Dật Tiên đề xướng. Nhưng bị các hội bảo vệ môi trường sinh thái địa cầu chống đối, vì nó sẽ hủy diệt vĩnh viễn cảnh quan thiên nhiên trong vùng, đồng thời xóa tên 140 thành phố lớn nhỏ, 4500 làng mạc, 30.000 ha đất trồng trọt, hằng ngàn di tích lịch sử, và tiêu phí một ngân khoản khổng lồ, mà không chắc đạt được kết quả mong muốn.               Với nước Tàu, từ trước tới nay sông Dương Tử là nguồn nước tưới cho cả khu vực đồng bằng Hoa Trung, miền đất cá và gạo, chiếm nửa tổng sản lượng của cả nước. Nhưng đồng thời sông Dương Tử cũng là tai ương ngàn năm của Hán Tộc, riêng trong thế kỷ XX lụt lội đã gây cho hơn 300.000 dân chúng trong vùng thiệt mạng. Giống như sông Mekong, sông Dương Tử cũng phát xuất từ Tây Tạng, chảy qua khu vực Tam Hiệp, trước khi vào thành phố Trùng Khánh, được coi như lớn nhất hiện nay tại Hoa Lục.               Từ nhiều lý do, trong đó quan trong nhất cũng vẫn là mục tiêu chính trị,khiến cho Bắc Kinh đã nhắm mắt lao vào một công trình rất tốn kém về tiền bạc, sức người lẫn thời gian,gây ảnh hưởng nặng nề đến vấn đề tâm lý, khi đàn áp đuổi dân, phá hoại các công trình kiến trúc bao đời trong vùng. Thực hiện được đập thủy điện này, về quốc tế: Trung Cộng sẽ hãnh diện có thêm một kỳ quan, sau Vạn Lý Trường Thành. Về kinh tế: Ðảng Cộng Sản nuôi hy vọng, nhờ nó giúp mức phát triển 11% hàng năm qua nguồn cung cấp điện cho công nghệ, và sinh hoạt.               Ðây là một cái đập khổng lồ , kinh phí dự chi tốn khoảng 30 tỷ đô la, thực hiện trong 14 năm. Chiều cao của dập 607 bộ, chiếm một diện tích hơn 1 dặm vuông., bao gồm một hồ chứa nước dài 370 dặm và một hệ thống khóa đặc biệt : Hút nước từ các nguồn nước khác khi thiếu, cũng như xã nước vào mùa lụt, vừa giúp sự giao thông trên sông Dương Tử, đồng thời vét vơ nước từ các con sông khác, qua hệ thống kênh đào, để tưới cho các vùng đất khô hạn xa xôi ở phía tây.               So với các đập thủy điện khác trên thế giới, dập Tam Hiệp không cao và rộng hơn nhưng lại trội nhiều về sức mạnh, với 26 Turbin mà trọng lượng mỗi chiếc 400 tấn/1 chiếc, sẽ tạo ra 18.200 magawatt điện, công suất tương đương với 18 nhà máy điện nguyên tử. Ðập này mạnh hơn các đập Itapu (giữa Brazil và Paraguy có công suất 12.600 megawatt ), dập Guri ở Venezuela có 10.300 megawatt, dập Grand Coulee ở Colorado của Mỹ có 6809 megawatt và đập Sayano Shushensk ở Nga với 6400 megawatt.               Theo nhận xét của thế giới, Trung Cộng đã tốn hết 75 tỷ Mỹ kim cho công trình vĩ đại này (chứ không phải 19 tỷ như tuyên bố của đảng) . Vì mục tiêu chính trị, Trung Cộng không cần biết tới tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án, hầu như đều bị sự phê bình chỉ trích của các nhà đầu tư và tài chính quốc tế. Bởi thế nên không làm lạ khi nghe Phó giám đốc xây dựng đập là Cao Guangjing, nói rằng muốn biết đập có hoàn hảo hay không, phải đợi tới 30 năm sau mới thấy được.               Chưa hết, Trung Cộng còn cho biết sau khi hoàn tất đập Tam Hiệp vào năm 2008, Ðảng lại tiếp tục xây thêm 10 đập khác trên thượng nguồn sông Dương Tử, nối tiếp vùng Tam Hiệp. Ðiều lo lắng nhất của người Tàu hiện nay, là làm thế nào để có thể giảm nhanh chóng một biển nước khổng lồ , luôn được chứa trong hồ với độ cao từ 512-574 ft, khi mùa mưa tới. Thảm kich về đập thủy điện Banqiao ở Hồ Nam, vào năm 1975 mưa nhiều vở đê kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống đập chung quanh, gây lụt lội làm chết hơn 230.000 người. Nhưng Trung Cộng đã ém nhẹm tới gần đây thế giới mới biết. Ngoài ra đập thủy điện Tam Hiệp chưa khánh thành nhưng nhiều dấu hiệu bể nứt đã thấy xuất hiện rồi. Ðiều này cũng dễ hiểu, vì trong thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Tàu,Nga, VC,Bắc Hàn, Cu Ba), gần hết ngân khoản của các công trình xây dựng, đều bị tay chóp bu đảng, và quan quyền lớn nhỏ, móc ngoặc với nhà thầu, chia, chặt, xén, đục khoét, rút ruột để bỏ túi.. cho nên đâu có kiến trúc nào được toàn vẹn, vì vậy chưa bàn giao đã lung lay hay sứt mẽ là cái chắc rồi.   + HỆ THỐNG ÐẬP THỦY ÐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY VÀO VIỆT NAM :               Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Tàu , Lào, Thái Lan, Miến Ðiện, Kampuchia và Việt Nam, rồi ra Biển Ðông tại chín cửa lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lãnh thổ Viết Nam, mới có tên là Cửu Long Giang. Cũng vì dòng sông có sự liên quan của nhiều nước, nên đã có chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong, do nhiều tổ chức và các định chế tài chính quốc tế tham gia. Trên lý thuyết, đã có tới sáu chương trình và dự án phát triển con sông trên. Chương trình Ủy ban sông Mekong (MRC), do LHQ khởi xướng từ năm 1957, nhằm quản lý nguồn nước và tài nguyên của sông, được xúc tiến mạnh sau năm 1975, khi chiến tranh Ðông Dương lần 2 chấm dứt.               Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại khởi xướng chương trình hợp tác sông Mekong, giữa các nưóc liên hệ (GMS), thúc đẩy sự đầu tư khai thác của các nước trong vùng, qua các dự án đầu tư do ADB chi phối. Năm 1993, Nhật Bản đề xướng Diễn đàn phát triển toàn diện Ðông Dương (F&DI), chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng có sông Mekong chảy qua. Tiếp theo Nhật lại đưa thêm dự án AEM-MITI nhằm giúp Miến Ðiện, Lào, Kampuchia chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng năm 1993, Thái Lan lại đề xướng chương trình hợp tác sông Mekong, nhằm phát triển khu vực sông chảy qua các nước Tàu, Miến Ðiện, Thái Lan và Lào.               Tháng 12-1995, Tân Gia Ba và Mã Lai lại đề xướng dự án hợp tác phat triển sông Mekong của các nước thành viên Asean có sông Mekong chảy qua, ưu tiên là đặt hệ thống đường sắt.. Nhưng tất cả đều là lý thuyết, vì Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước khác ở hạ nguồn. Trung Cộng đã ỷ mình nước lớn, nên đã bất chấp sự phản đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đã xây dựng cả hệ thống Ðập Thủy Ðiện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia, và Việt Nam.               Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên mãi tới năm 1989 khi Ðặng Tiểu Bình mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam. Theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam, và lời xác nhận của Hiroshi Hiro, người Nhật, một Chuyên gia về sông Mekong, cho biết Trung Cộng đã xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này, đó là chưa kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi, Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều, Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Ðại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa Trát Ðộ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mãnh Tòng.               Sông Mekong hay Dza-Chu (Nguồn nước của đá), phát nguyên từ cao nguyên phía đông Tây Tạng, dài hơn 4000 km, chảy về hướng Nam, băng qua những hẽm núi sâu và rừng núi hoang lạnh của tỉnh Vân Nam với cái tên Lan Thương Giang (Lancang Jiang). Riêng khúc sông chảy giữa biên giới Lào-Thái mang tên Mae Nam Khong. Tại Cam Bot sông lại có tên là Tonle Thom, và cuối cùng Cửu Long Giang trong lãnh thổ Việt Nam.               Trong cuốn sách ‘ Lan Thương Giang - Tiểu Thái Dương ‘ , do Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn hành bằng tiếng Tàu, từ đầu tới cuối chỉ đề cao tới tiềm năng của sông cần khai thác, tuyệt nhiên chẳng thấy nói tới hậu quả nào do chuổi đập gây thiệt hại tới các nước ở hạ lưu. Ðiều này dễ hiểu,vì Trung Cộng luôn coi đó như một bí mật quốc phòng, thứ vũ khí môi sinh chiến lược, để khủng bố Việt Nam, quốc gia cuối cùng nơi dòng sông thoát ra biển.               Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Ðại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa, và xã nước trong mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẽ không còn những cơn lụt hằng năm, mang phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền, sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm , làm cho Biển Hồ khô chết, còn đồng bằng miền Nam ven biển Ðông, sẽ bị ngập mặn, vì lòng sông thấp hơn mực nước biển.               Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất thường cho dòng sông Mekong, làm xói lở hai bờ , đọng nhiều muối trên đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữa lại, làm cho ruộng thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đã trút đổ những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như chì, kẽm, cyanide.. gây ô nhiểm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các loại cá .               Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lạn Thương Giang, lớn thứ nhì trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Ðập này có công suất điện 4200 MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối nước, từ nguồn sông Mekong. Ðập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ đola.               Ngày nay Trung Cộng đã công khai đe dọa thế giới, trực tiếp đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy bọn Tàu Phù toàn quyền khai thác sông Mekong, và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con sông này vào năm 1995, cũng như không cần đếm xỉa tới thảm họa môi sinh của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nhìn thấy rõ, nhát là mưu đồ dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.   2- ÐỒNG BẰNG VÀ SÔNG NGÒI VIỆT NAM, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU CHỆT :               Diện tích Việt Nam hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền châu thổ Bắc Việt hình thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Ðồ Sơn, Việt Trì và Phát Diệm., với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc Phần (115.700 km2), được hình thành bởi phù sa sông Hồng Hà, và Thái Bình.   + SÔNG HỒNG HÀ : Phát nguyên từ rặng Ngụy Sơn, kế Ðại Lý Hồ trong tỉnh Vân Nam (Tàu), có chiều dài 1200 km, phần chảy trên đất Tàu gọi là sông Ma Lung hay Nguyên Giang. Riêng 500 cây số trong lãnh thổ Việt Nam, được gọi là Nhĩ Hà, Hồng Hà hay Sông Thao.               Sông vào địa phận Bắc Việt tại Hà Khẩu (Lào Kai), trước khi ra biển Ðông, đã tiếp nhận nhiều phụ lưu quan trọng như sông Lô ở tả ngạn. Sông này còn có tên là Thanh Giang, cũng phát nguyên từ bên Tàu, và chảy vào VN tại Hà Giang, rồi đổ vào sông Hồng ở Việt Trì. Sông Lô còn có hai phụ lưu là sông Gầm va sông Chẩy thông với hồ Ba Bể.                Sông Ðà bên hữu ngạn,cũng phát nguyên từ Vân Nam, chảy vào Việt Nam song song với sông Hồng, và đổ vào sông này tại Việt Trì. Ngoài ra còn có nhiều sông nhỏ khác, cũng đổ vào Nhĩ Hà như Nậm Pò, Nậm Na, Nậm Mấc, Ngòi Thia, Ngòi Lao ở thượng nguồn. Phía gần biển, có thêm các phụ lưu Sông Luộc, sông Ðuống, sông Ninh Cơ, Trà Lý.. Tất cả đã mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng lúa mùa, miền Hạ Du, ngay từ thời Văn Lang lập quốc cho tới bây giờ. Từ Hà Nội lên Lào Kai, xuyên biên giới đi Vân Nam ,có con đường sắt được thiết lập từ thời Pháp thuộc, chay song song với tả ngạn sông Hồng, qua những nhà ga Bảo Hà, Trái Hút, Phố Lu.. mang đầy huyền thoại trong kho tàng văn học dân gian, về các câu chuyện ‘ Ma-Cọp ‘.               Lào Kai là tỉnh địa đầu của miền tây bắc, chỉ cách Trung Cộng có cây cầu biên giới Cốc Lếu, nên trong cuộc chiến năm 1979, giặc Tàu gần như làm cỏ thành phố, mãi cho tới năm 1991 mới chỉ có 1700 gia đình trở về nhà cũ của mình.. Ngày nay nhờ chương trình du lịch Sapa và nhất là buôn lậu ,nên Lào Kai dân số gần 100.000 người. Thị xã nằm ngay trên ngả ba sông Nậm Thị từ Vân Nam đổ vào sông Hồng. Cầu Hồ Kiều dài 200m, ngăn đôi hai nước, bên này là Lào Kai, phía bên kia là thị trấn Hà Khẩu, thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.               Sông ra biển bằng cửa Ba Lạt, và Trà Lý ở thị xã Thái Bình. Trước đây khi Trung Cộng chưa xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn của sông chảy trong tỉnh Vân Nam, thì Nhĩ Hà có lưu lượng rất lớn, và thay đổi tuỳ theo mùa, từ 300m3/1 giây - 28.000 m3/1 giây nhưng trung bình là 700m3/1giây.. Nước sông dâng cao thường vào mùa mưa, tại Hà Nội có khi dâng cao tới 12m, trong khi mùa nắng mực nước chỉ có 2m.. Từ trước tới nay vùng Hoa Nam và Bắc Phần có nhiều mưa về mùa hè, làm cho mực nước sông Nhị dâng cao rất nhanh. Lúc trước tại Vân Nam, rừng chưa bị đốn để dựng đập nước, nên mùa mưa, phần nào giữ được nước tuôn từ thượng nguồn về.               Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng thì giữ nước ngọt lại trong hồ chứa để mà tưới , trái lại mùa mưa thì mở đập để nước trên sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó , hệ thống đê điền ở miền Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như đê phải đắp cao theo tình hình mực nước, khiến cho đê thường bị vở. Ngoài ra vì bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều phân bón.               Riêng hệ thống sông Thái Bình, dài độ 340km, chảy từ Phả Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa Việt Nam. Tuy nhiên vì Sông Nhị có hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Ðuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái Bình, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay dòng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hưởng từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.   + ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :               Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây Nam phần : Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Ðồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bac Liêu và Cà Mâu. Khu vực này chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt, Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng riêng biệt :               - Vùng phù sa nước ngọt : Từ nguồn sông chính tại Kampuchia, Mekong chảy vào Nam Phần bằng hai nhánh tại Châu Ðốc và Hồng Ngự, xuống tận Mỹ Tho, Bến Tre. Khu vực này chiếm một diện tích hơn 1 triệu Ha, phần lớn là vườn cây ăn trái đủ loại, mọc bạt ngàn theo hai bờ sông Tiền và Hậu, cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện. Ðặc biệt giữa dòng sông thường có nhiều cù lao lớn nhỏ như Cồn Phụng, Lân, Qui tại Mỹ Tho, cù lao Ông Hổ ở An Giang, cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt-Cần Thơ), cù lao Bình Hòa Phước tại Vĩnh Long..               - Vùng phù sa nước mặn : Chiếm diện tích khoảng 900.000 Ha, bao gồm lưu vực các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau. Ðặc điểm vùng này là có nhiều rừng nguyên sinh ngập mặn, nhiều khu vực tập trung hàng ngàn loại chim cò đủ loại tại Vàm Hồ (Ba Tri-Bến Tre), Bạc Liêu hay Chùa Dơi (Sóc Trăng)..               - Vùng bán đảo Cà Mau : Nằm cuối miền Nam nước Việt, rộng chừng 1 triệu Ha và hằng năm được phù sa của sông Hậu, bồi đắp thêm làm cho Mũi Cà Mau càng lấn ra biển từ 60 đến 80m. Tại đây còn nhiều khu rừng tràm, đước được dùng làm củi đốt từ xưa tới nay Khắp khu vực có nhiều Sân Chim Cò, Cốc hơn 40 loại, sống tại Ngọc Hiển, U Minh, Hòn Khoai. Ðây cũng là vựa tôm, cá và đặc biệt là mật ong nổi tiếng của Miền Nam.               - Vùng Ðồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên : Rộng 1 triệu ha, được coi như là những hồ chứa nước thiên tạo, vào mùa sông Tiền-sông Hậu lụt lội, nhờ vào năm miền trũng thấp. Trong số này quan trọng nhất vẫn là Ðồng Tháp Mười, với các khu rừng tràm Xẻo Quít (20 Ha), Tràm Chim (2441Ha).. có hơn 141 loài chim sinh sống, nhiều nhất là loài sếu đầu đỏ.               Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Dòng chính) và sông Hậu, được chia thành chín nhánh nhỏ hình rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa, lại tạo thành nhiều cù lao rất phì nhiêu. Trong lãnh thổ VN, phía thượng nguồn, sông Cửu Long làm thành vùng trũng như những hồ chứa nước thiên nhiên trong mùa lụt. Về phía biển, đồng bằng được phù sa bồi đắp cao ráo, thành những giồng để cất nhà cửa, lập vườn cây ăn trái . Dòng sông cho nhiều tôm cá quanh năm, bù đắp phù sa như một thứ phân bón hữu to rất tốt cho đồng ruộng. Toàn vùng, Mỹ Tho được coi là lý tưởng nhất cho nghề nông vì đất đai phì nhiêu, sông rạch đầy tôm cá, người dân làm chơi ăn thiệt, cuộc sống sung túc, tạo thêm dân trí lễ nghĩa với các thú vui nghệ thuật, mà phát triển nhất nếp sống miệt vườn tao nhã qua đờn, ca, hát xướng, thơ ngâm, hò đáp khi chèo thuyền giả gạo.               Sông Tiền Giang chảy ngang qua thành phổ cổ kính Mỹ Tho, trước khi ra biển bằng nhiều nhánh. Giữa những nhánh sông có các cù lao rộng lớn phì nhiêu, làm thành tỉnh Bến Tre nổi tiếng với rặng dừa xanh lớn nhất nước. Trường Trung Học danh tiếng Nguyễn Ðình Chiểu tại Mỹ Tho, được coi như là ngôi trường đầu tiên của người Việt tại Nam Phần, trong lúc Sài Gòn mới có ngôi trường Trung học dành cho con cái người Pháp (nay là trường Trung học Lê Quy Ðôn) , lập hồi cuối thế kỷ XIX. Vào năm 1926, Sài Gòn mới có trường Trung học Petrus Ký, dành cho người Việt.               Ðất Gò Công sát biển, nổi tiếng với Ðức Từ Dũ (Mẹ ruột vua Tự Ðức nhà Nguyễn), căn cứ chống thực dân Pháp của anh hùng Trương Ðịnh (1863). Ngược về phía nam, xuyên QL4 (nay là QL1), trước khi đến cầu Mỹ Thuận (thay thế phà), hai bên đường lẫn bờ sông, nhà cửa san sát, xen lẫn với vườn đủ loại trái cây, và đồng ruộng lúa nước xanh um ngút mắt.               Qua cầu, quẹo về hướng biển non 10 cây số, là tới Vĩnh Long, miền đất hiền lành xinh đẹp nằm trên Sông Cổ Chiên, một nhánh của Cửu Long. Chợ tỉnh trải dài theo bờ sông bồng bềnh những giề Lục Bình hắt hiu trong màu phù sa làm cho nước vàng đục. Thành cổ xưa còn đó với cây đa cổ thụ, làm nhớ tới Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông.. người uống thuốc độc quyên sinh để đền nợ nước, kẻ thỉ rời bỏ quê làng chôn nhau cắt rút, dắt díu gia đình ra tận Bình Thuận tị địa vào năm 1867, khi thành Vĩnh Long bị thực dân Pháp đánh chiếm. Gần chợ nay vẫn còn Văn Thánh Miếu được lập ra thờ Khổng Tử, nhưng ngày nay người Việt đến cúng bái, gần như chỉ biết tới Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông mà thôi.               Bên kia sông Hậu là thành phố Cần Thơ, sung túc bề thế và xinh đẹp chỉ thua Thủ đô Sài Gòn. nên xưa nay vẫn được đời xưng tụng là Thủ phủ của Miền Tây-Nam Nam Phần, phát triển ngay từ đầu thế kỷ XX, ngay khi miền Hậu Giang trở thành vựa lúa gạo nuôi sống cả nước. Nhờ vậy mà cả cánh đồng lau sậy, tràm được, cá sấu, muỗi mòng, giữa sông Hậu và Vịnh Phú Quốc, được khai thác, đào kênh, đắp đường, mở mang làng xóm, trù phú như ngày nay. Thời Pháp thuộc, Cần Thơ có Chi nhánh Ngân hàng Ðông Dương, Nhà máy Ðiện lực rất lớn, cung cấp điện cho các tỉnh lân cận. Trường Trung học Công lập Phan Thảnh Giản thành lập từ năm 1926,hơn trăm năm qua đã đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước, trong đó không thể không nhắc tới Nhà Quân Sử nổi tiếng hiện nay tại hải ngoại là Pham Phong Dinh..               Cuối nước Việt, về hướng biên giới,đầu tiên là Cảng Cá,nằm ngay Vàm sông Ông Ðốc, qui tụ nhiều tàu đánh cá lớn khắp vùng. Xa hơn là Ngư Cảng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang, nổi tiếng nhất nhì trong nước, ngang hàng với Ngư Cảng Phan Thiết-Bình Thuận. Biển ở đây cạn, nhiều bùn lại nhiều muỗi mòng, nhưng ngược lại đầy tôm cá. Ngoài khơi Rạch Giá có hằng trăm đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, trong đó có Hòn Tre diện tích lớn, dân đông. Kế bên là Hòn Sơn Rái nổi tiếng làm nước mắm cá biển               Sát biên giới Việt-Kampuchia là Thị Xã Hà Tiên, phong cảnh hữu tình với Ðông Hồ, núi Tô Châu, ngôi chợ tuy nhỏ nhưng đây cổ kính. Ðối diện là Hải Ðảo Phú Quốc, lớn nhất Việt Nam, chuyên trồng tiêu, làm nước mắm, ngư nghiệp ....               Từ Chợ Hà Tiên đi ngược lên dọc theo biên giới có Kênh Vĩnh Tế do Thoại Ngọc Hầu đào vào thập niên 1920, thời Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn. Kênh này như một thủy đạo, nối liền sông Hậu thông ra Vịnh Phú Quốc. Vùng này trũng thấp, đất phèn mặn, nên ruộng đồng hoàn toàn bị ngập, vào mùa lụt do sông Cưu Long dâng cao. Bảy Núi hay Thất Sơn bao gồm nhiều hòn lớn nhỏ, chạy dài trên 30km, mà đỉnh cao nhất là ngọn Núi Cấm (700m), mây trắng che mịt mù vào mùa đông, trong núi có nhiều hang động thiên nhiên, trên sườn mọc đầy sắn, đậu, hoa quả và các cây thuốc Nam.               Kế cận là Thị Xã Châu Ðốc, nổi tiếng ba miền là Miểu Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, được xem là chốn linh thiêng, quanh năm có rất nhiều thiện nam tín nử tới hành hương cúng kính.. Chợ Châu Ðốc xây trên bờ sông Hậu, dưới sông tấp nập ghe thuyền. Phia bên kia sông có nhiều Làng Chàm Hồi giáo, chuyên sinh sống bằng ngư nghiệp và nghề dệt  tơ lụa.               Thành phố Long Xuyên là thủ phủ của tỉnh An Giang, lúa gạo sung túc, đang phát triển mạnh nghề nuôi cá bè trên sông Hậu. Ðây là miền đất được mở mang sớm nhất ở Nam Phần, ngay từ năm 1700 khi Thống Suất Nguyễn Hửu Cảnh, được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, tới đây cũng cố biên giới, vì vậy các lưu dân từ Thuận Quảng theo chân đoàn quân vào đậy lập nghiệp rất đông đảo. Tại An Phú, đầu nguồn của sông Hậu trong tỉnh An Giang, nay còn sót lại Búng Bình Thiên, có diện tích rộng hơn 30.000 m2, là một vùng đất bị bỏ hoang, vì nước sâu không thể trồng lúa được. Láng mọc đầy Sen và cỏ dại, là nơi chung sống của đủ loài thủy tộc, từ cá tôm, cho tới rắn rùa, sống dưới rừng củ co, bông súng, rau tràng.. cảnh sắc không gì thay đổi như từ hai ba thế kỷ trước. An Phú còn có tới 4 chợ trời biên giới, và đông đảo người Chàm theo Hồi giáo cư ngụ.               Sa Ðéc hiện nay chỉ là thị trấn, trong khi Cao Lãnh trở thành thị xã tỉnh lỵ của Ðồng Tháp. Nằm bên hửu ngạn sông Hậu, Sa Ðéc là vùng đất cổ, nổi tiếng với những vườn cây ăn trái của Nam Phần,nhờ khí hậu trong lành so với các tỉnh khác. Chợ Sa Ðéc đẹp, vùng lân cận nổi tiếng về sản xuất hoa hồng. Trên con đường từ chợ tới Bắc Vàm Cống, có hai làng nghề truyền thống là Nem Lai Vung và Chiếu Lấp Vò. Ngoài ra tại làng Ðịnh Yên, còn có một Chợ chiếu độc đáo, mà người điạ phương gọi là ‘ Chợ Ma hay Chợ Âm Phủ ‘, vì chợ chỉ nhóm họp hằng đêm từ 12 giờ khuya tới hừng sáng thì dẹp. Ðây là truyền thống đã có từ 100 năm qua, chuyên bán sĩ và lẽ hai loại chiếu ‘ Hà Niên’là loại chiếu bông vuông nhỏ và loại ‘ Vẩy Ốc ‘ màu trắng, bông được in bằng khuôn, làm rất công phu, để lâu không bị bay màu và lên mùi mốc.               Ðồng Tháp Mười là vùng đất trũng, nhiều phèn, vào mùa lụt nước sông dâng cao tới 4m, cá tôm nhiều nhưng muốn có phải mua sắm dụng cụ mới khai thác được.. Tại đây còn có một loại lúa trời, mọc tự nhiên, ăn được nhưng không ngon. Trước đây Ðồng Tháp Mười coi như một đồng cỏ khổng lồ, ngày nay nhiều khu vực đã được khai khẩn để trồng lúa. Dân cư tứ xứ tới đây làm ăn rất đông, nhất là khu vực tiếp xúc với hai con sông Vàm Cỏ Ðông và Tây.               Tại những tỉnh về phía Nam, nơi hạ nguồn của sông Hậu như Trà Vinh, Sóc Trăng, đồng bằng được phù sa bồi đắp, thành những giồng đất cao ráo, không bị úng lụt vì nước rút ra biển rất nhanh. Ðây là địa bàn cư trú cũa người Việt gốc Khmer và người Minh Hương (Tiều Châu chiếm đa số) . Ngoài những cánh đồng lúa, ruộng muối cò bay thẳng cánh ở Bạc Liêu, dân địa phương còn trồng nhiều hoa màu phụ như cải, dưa hấu, cây ăn trái.. Với người Việt gốc Khmer, thì thu nhập chính vẫn là cấy lúa ngắn hạn loại Thần Nông, trên đất cao không cần nhiều nước.   3-TRỜI HÀNH LỤT LỘI MỖI NĂM TẠI ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG : Source: Viên Gạch Cho Tự Do

© 2016 About Us | Terms & Conditions