PHỎNG VẤN NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC THỤY KHUÊ (Lê Quỳnh Mai thực hiện)


Phỏng Vấn Thụy Khuê / Lê Quỳnh Mai thực hiện Tác giả : LÊ QUỲNH MAI  THỤY KHUÊ Thứ Bảy, 23 Tháng Tư-2011 http://www.hopluu.net/D_1-2_2-117_4-1740
Tiểu Sử Tên thật: Vũ Thị Tuệ Sinh: ngày 9/8/ năm Giáp Thân (25/9/1944). Tại: làng Doanh Châu, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Tiểu học: trường Ngô Sĩ Liên, Hà Nội và Bàn Cờ, Sài Gòn. Vào Nam:tháng 10/1954. Học trung học tại trường Văn Lang, Tao Đàn và Gia Long, Sàigòn. Sang Pháp du học: tháng 9/1962. Học dự bị thi vào GrandesEcoles. 1964, lập gia đình với Lê Tất Luyện, có ba con. Tháng 8/1984, về Sài Gòn, Hà Nội. 1/1985, viết bài đầu tiêntrên báo Tự Do (Bỉ), ký sự về chuyến đi này. Đã cộng tác với các báo: Tự Do, Văn Học, Thông Luận, Người Việt,Thế Kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, Diễn Đàn, Hợp Lưu... Phụ trách chương trình Văn Học Nghệ Thuật của đài RFI (RadioFrance Internationale) từ tháng 12/1990 đến tháng 3/2009.
Tác phẩm đã in: Cấu trúc thơ (Văn Nghệ, 1995) Sóng Từ Trường (Văn Nghệ, 1998) Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp (Văn Nghệ2002) Sóng Từ Trường II (Văn Nghệ, 2002) Sóng Từ Trường III (Văn Mới, 2005)
------------------------------
LÊ QUỲNH MAI : Xin Chị cho biết nguyên nhânnào đã mang Thụy Khuê đến với đài phát thanh RFI, và trở thành nhà phê bình vănhọc nổi tiếng tại hải ngoại? THỤY KHUÊ: Tôi viết tiểu luận từ năm 1986, trên báo TựDo, phát hành ở Bỉ. Từ tháng 11/1987, bắt đầu gửi bài đăng trên Văn Học (Cali),những bài đầu viết về Thế Giang, Nguyễn Mộng Giác, Võ Đình... còn non nớt lắm.Tháng 4/1988, vẫn trên Văn Học, có bài đầu tiên về Nhân Văn Giai Phẩm. Lúc ấy,chúng tôi giúp nhà xuất bản Văn Nghệ và báo Văn Học phát hành tại Pháp, vì vậytôi quen với Bạch Thái Quốc, người trông nom hiệu sách Nhà Việt Nam (trựcthuộc Hội Việt Kiều ở Paris). Bạch Thái Quốc là người cung cấp toàn bộ tài liệu về Văn họcphản kháng (văn học đổi mới) cho tôi, vì anh hay về nước mua sách: Nhữngtác phẩm đầu tiên của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... ; nhữngtư liệu về đại hội VI của đảng Cộng sản (tháng 12/1986); về cuộc Hội thảo giữa100 văn nghệ sĩ và Nguyễn Văn Linh (6 và 7/10/1987); về Đại Hội Nhà Văn lần thứIV (từ 23 đến 31/10/1989). Tóm lại, những bài vở và tài liệu báo chí, liên quanđến những sự kiện quan trọng này đều do Bạch Thái Quốc đem ra ngoài. Nếu khôngcó anh thì chưa chắc hải ngoại đã biết những gì xẩy ra ở trong nước. Nhờ nhữngtài liệu quý giá này, mà tháng 3/1990, tôi viết loạt bài đầu tiên về Văn họcphản kháng in trên Văn Học các số 50, 51 và 52 tháng 4-5- 6/1990. Giữa năm 1990, đài RFI mở Ban Việt Ngữ. Bạch Thái Quốc làm trưởngban, nhờ tôi phụ trách 2 chương trình: Trả lời thư thính giảVăn họcnghệ thuật. Chương trình Trả lời thư thính giả phù hợp với tâm cảmcủa thính giả trong nước lúc bấy giờ: Bức tường Bá Linh vừa sụp đổ, khát vọng tựdo tràn đầy. Thính giả miền Bắc, nhiều người chưa tiếp xúc với dân chủ bao giờ,có những thắc mắc sâu sa và tế nhị về các vấn đề tự do dân chủ. Đó là khởi điểm.Về sau, tất cả mọi vấn đề khác về đất nước nói chung, đều được đề đạt. Lúc đóEmail chưa thông dụng. Một bức thư ở trong nước gửi ra tiền tem rất đắt, nhưngkhối lượng thính giả viết thư cho đài khá lớn, rất nhiều người ở các vùng quê hẻolánh, và cả những người trong tù như các anh Như Phong Lê Văn Tiến, Đoàn ViếtHoạt, đều nghe và khi ra hải ngoại các anh cho tôi biết. Đây là chương trình đốithoại trực tiếp giữa thính giả mọi miền trong nước và một người ở ngoài nước.Có những câu hỏi khó, những vấn đề nan giải, nhưng qua đó, thính giả trong vàngoài nước có thể hiểu nhau, thông cảm nhau hơn, nhiều vấn đề nóng bỏng đượcnói và phân tích trên đài. Tiếc rằng, đến tháng 1/1999, vì muốn đi sâu vào địahạt phê bình và nghiên cứu, tôi phải bỏ chương trình Trả lời thư thính giả,chỉ giữ lại chương trình Văn học nghệ thuật. Nhờ chương trình Văn học nghệ thuật hàng tuần, mà tôicó mối liên hệ mật thiết với văn nghệ sĩ và trí thức trong nước. Phỏng vấn vàPhê bình hỗ trợ cho nhau: Vì các bài phê bình mà văn nghệ sĩ tin ở mình, do đó,họ dễ dàng nhận đối thoại. Vì có đối thoại, nên sự tìm hiểu tình hình văn nghệtrong nước dễ dàng hơn, việc phê bình được hoàn chỉnh hơn. Nếu chính trị làmcho con người xa nhau, thì văn chương đẩy con người lại gần nhau.
LQM : Thụy Khuê không chỉ viết những bài bìnhluận văn chương thật sắc bén, những tản mạn về một số địa danh nổi tiếng thế giớinhư Nice, thực hiện những phỏng vấn rất giá trị về mặt văn chương. Tuy nhiên lạikhông sáng tác truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Tại sao? TK: Phải lựa chọn, Quỳnh Mai ạ. Sáng tác và phê bìnhcó những điểm chung và cũng có những điểm riêng. Điểm chung: Óc sáng tạo. Trí tưởng tượng. Yêu ngôn ngữ. Yêucon người. Có văn. Điểm riêng: Nhà văn đi từ cuộc đời để sáng tác. Nhàphê bình đi từ tác phẩm để sáng tác. Nhưng cách sáng tác của họ khác nhau: Nhà văn quan sát cuộc sống,tra vấn nội tâm của mình, của người để sáng tác. Nhà phê bình quan sát tác phẩmcủa nhà văn, phân chất mỗi chữ, mỗi lời, để tìm ra cái sườn tư tưởng và nghệthuật của tác giả. Nếu nhà văn hoàn toàntự do trong sự tưởng tượng của mình về cuộc đời, về con người, thì nhà phê bình phải giới hạn sự tưởng tượngtrong chữ nghiã của tác giả mà mình khảo sát, không thể tán, bịa, hoặcgán ghép những điều không có trong văn bản, tức là không thể nói trắng thành đen,cái dở ngụy biện thành cái hay. Nhưng nếu không có óc tưởng tượng, nhà phê bìnhcũng không đọc được những gì ẩn sau chữ nghiã của tác giả. Nếu không có óc sángtạo, người phê bình cũng chỉ chép lại những nhận định của người đi trước, màkhông nghĩ ra được những ý mới. Chúng ta nên biết: chính tác giả nhiều khi cũngkhông «hiểu rõ» tác phẩm của mình bằng người phê bình. Những gì tác giả cảm nhận về tác phẩm của mình chỉ đúng với nghĩacủa tác giả. Nhưng một tác phẩm giá trị thường có nhiều tầng ý nghĩa. Ở nhữngbài phê bình hay, tác giả có thể «học» thêm được những ý nghiã mới trong tác phẩmmà chỉ có người phê bình giỏi mới phát hiện ra. Khi người ta nói đến sự cộngtác giữa tác giả và người phê bình là trong cái nghiã đó. Và khi người ta nói“tác giả đã chết”, có nghiã là tác giả không còn “thẩm quyền” nhận định về tácphẩm của mình, mà chính văn bản sẽ “nói “ thay tác giả. Vốn kiến thức của nhà văn và nhà phê bình cũng khác nhau: Nhàvăn, cần phải lăn lộn trong đời sống, sống với con người và cái ngôn ngữ mà họviết. Nhà văn phải được nghe, được nói thường xuyên cái ngôn ngữ mà họ đã chọn,hoặc ít ra là phải đọc những tác phẩm giá trị của các nhà văn khác, cùng haykhác thời, để học và hiểu cách họ viết như thế nào, rồi trên cái nền kiến thức ấy,mới sáng tạo ra cách viết của riêng mình. Sự đọc các tác phẩm ngoại ngữ, chỉlàm giầu cho phần kỹ thuật viết, nhưng không giúp ích gì cho ngôn ngữ nhà văn.Sự «bế tắc» của nhiều nhà văn hải ngoại, phần lớn nằm ở chỗ: không được tiếpxúc hàng ngày với đời sống và ngôn ngữ mà họ viết. Về phần nhà phê bình, một khi đã tìm ra sườn tư tưởng và nghệthuật của tác phẩm và tác giả, thì phải lý giải lập luận của mình, tức là phảivận dụng đến những kiến thức về triết học, ngôn ngữ học, và các lý thuyết văn họckhác. Vậy việc đọc của nhà văn và nhà phê bình cũng khác nhau. Do đó,nếu muốn có kết quả tốt, không nên làm hai việc một lúc. Có những nhà văn có khảnăng phê bình, có thể viết những bài bình luận ngắn với những ý kiến độc đáo,nhưng thường vẫn chỉ là những bài phê bình tài tử chưa phải là chuyên nghiệp.
LQM : « Sóng Từ Trường » của ThụyKhuê là một trong những tác phẩm giá trị trong văn học Việt Nam đương đại.Chị có thể giới thiệu lại cho độc giả được biết về đứa con tinh thần này không? TK: Sóng Từ Trường tập hợp và tuyển chọn nhữngbài tiểu luận phê bình của tôi viết từ năm 1991. Tức là từ những bài có thể in thành sách được. Hiện nay mới ra được ba tập. Rất mong trong thờigian sắp tới, tôi sẽ có thì giờ đọc lại những bài đã viết, còn khá nhiều (chỉ mộtphần được đánh máy và lưu trữ trên website: thuykhue.free.fr) để in tiếp các cuốnSóng Từ Trường 4, 5, 6...
LQM : « Gặp Mai Thảo một lần, có thể rấtyêu hoặc rất ghét, nhưng nhớ mãi. Nhớ cái thực, cái authenticité Mai Thảo khóthấy ở một cá nhân nào » (HL 100: Mai Thảo (1927-1998). Chị đã nhận xét vềtác giả Ta Thấy Hình Ta Giữa Miếu Đền như thế. Một vài kỉ niệm nào đó về Mai Thảođã gây ấn tượng mạnh cho Chị phải không? TK:Đối với các nhà văn nổi tiếng lớp trước, tôi luônluôn có thái độ dè dặt. Mai Thảo sinh thời được bao vây như một triều đình nhỏ,tôi lại càng ngại hơn. Tháng 4/1988, Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại họp ở Washington D.C. AnhTrần Thanh Hiệp, muốn nâng đỡ đàn em, rủ tôi sang «kinh đô ánh sáng» gọi là ramắt «làng văn hải ngoại». Lần đầu tiên gặp Mai Thảo. Nhưng tôi không chào ông,mà lánh. Anh Hiệp và cả anh Nguyễn Ngọc Bích, đều khuyên: TK ra chào anh Mai Thảomột tý đi. Tôi dạ dạ, rồi vẫn lỉnh. Không chào. Lần thứ nhì, Mai Thảo sang Paris(mỗi năm ông sang Parismột lần vào mùa thu, ở nhà Trần Thanh Hiệp). Anh Hiệp tổ chức một buổi họp mặtvới Mai Thảo ở một quán ăn tại Paris13. Lần này anh Hiệp nhất định «ép»: TK phải gặp Mai Thảo. Hầu hết văn nghệ sĩ ởParis đều có mặt.Vì nể anh Hiệp, chúng tôi đến. Lúc tiệc đang vui, một nhà thơ trịnh trọng tặngMai Thảo một bài thơ chúc mừng ông đến Paris.Mai Thảo cầm, đọc cho mọi người nghe vài câu rồi trả lại tác giả: «Thế nàythì thơ cái đếch gì!» Nhà thơ tái mặt. Đó là ấn tượng đầu tiên Mai Thảo đểlại trong tôi: Nói những điều mà không aidám nói. Sau đó, giữa ông và tôi không còn ngăn cách, tôi gặp ôngluôn, đưa ông đi chơi mỗi lần ông sang Pháp, và mỗi lần sang Mỹ, việc trướctiên là chúng tôi đến thăm Mai Thảo. Lần đầu đến nhà tôi, vừa mở cửa vào, ông mỉm cười hỏi: Nghenói cô chơi toàn với Việt cộng phải không? Biết ông rất ghét «Việt cộng» vìbi kịch của chính ông và các bạn bị tù đầy, sau 75, tôi chưa biết trả lời thếnào, ông đáp luôn: Chơi với ai thì chơi là tùy ở mình, đừng để ý đến điều tiếngbên ngoài: Ông là người tự dovà luôn luôn tôn trọng tự do của người khác. Trong lúc chương trình Việt ngữ của RFI đang bị một làn sóngtẩy chay nổi lên rất dữ, nào là đài tay sai cho cộng sản, nào là đài cộng sảndo Hà Nội chỉ đạo, bản thân tôi cũng bị bôi nhọ nặng nề. Một nhà văn (lớn) đãnhận lời phỏng vấn, nhưng sau ông từ chối. Gặp lúc Mai Thảo sang Paris, tôi mời ông và hỏi:«Anh có ngại gì không?» Ông trả lời: «Tôi tin việc làm của Thụy Khuêlà tốt, mặc dù tôi không đồng ý (ông muốn nói đến việc tôi «giao lưu» vớicác nhà văn «Việt cộng»), vậy ta cứ làm»: Khôngđồng ý nhưng vẫn giúp, để những quan điểm đối lập với mình có thể hiện diện. Mai Thảo là một nhà văn lớn. Một nhân cách lớn. Đó là ấn tượngcủa tôi về Mai Thảo.
LQM : Cũng trong bài viết trên, Chị đã gói trọnvăn nghiệp Mai Thảo qua từng chi tiết « ... Người ta ca tụng Mai Thảonhưng dường như không mấy ai đọc Mai Thảo, may ra vài dòng Sổ Tay, dăm ba câuthơ Ta Thấy Hình Ta Giữa Miếu Đền, mặc dù ông là một người có địa bàn viết rộngnhất trong các nhà văn cùng thời, một bút pháp đa chiều, đầy mãnh lực...» Tuynhiên Chị lại nhận xét rằng: « … Những văn hữu già sống với Mai Thảo bằng trungthành tình bạn đã trải. Những người viết trẻ bu lấy Mai Thảo như một niềm tin,một cột vịn. Ai cũng có thể thấy mình thân với Mai Thảo... » Vậy bằng hữuvăn nghệ thân sơ đến với ông chỉ vì cái tên đình đám Mai Thảo, mà không là vănchương ông? TK:Theo tôi, có lẽ họ đến với ông vì phong cách Mai Thảo:Rất thật, nói thẳng, thân mật và quyến rũ trong cách uống rượu và ngâm thơ, vàông nổi tiếng. Còn đọc ông thì không chắc lắm. Tôi có dịp gần gũi vài người bạn thân của Mai Thảo. Khi phảiviết đôi dòng hay phát biểu về Mai Thảo, các cụ thường tới hỏi mượn cuốn này,cuốn kia của Mai Thảo, đôi khi hỏi cả ý kiến nữa. Phần Mai Thảo viết ở trong nước,dường như mọi người chỉ nhớ truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, may ra thêm Bảnchúc thư trên ngọn đỉnh trời. Phần ông viết ở hải ngoại, người ta cũng chỉ nhớ dăm ba câu thơ ngạo nghễ trong tậpTa thấy hình ta những miếu đền, và vài dòng Sổ Tay hàng thángtrên báo Văn, viết vội, kể về người này một tý, người kia một tý, nên ai cũngthích, nhất là những người được Mai Thảo nhắc đến tên. Thực ra, đó là lối viết thùtạc, ông viết để trả nợ những người đón tiếp ông. Nhưng văn thù tạc của MaiThảo cũng vẫn có cái tài hoa của nó. Sau khi ông mất, có nhiều bài viết về ông,nhưng không mấy ai nhắc đến Ngọn hải đăng mù và các tập truyện ông viết ởhải ngoại, về cuộc vượt biên và đời di tản: Trong nền văn học hải ngoại, Mai Thảovẫn còn ở địa vị hàng đầu.
LQM : So sánh với một Mai Thảo của vũ trường củarượu của những đêm thâu suốt sáng, một nhà văn không có nhiều độc giả, là mộtVõ Phiến với nếp sống chừng mực nề nếp, và cũng là một nhà văn không ăn kháchtrong nước trước 1975 (Hợp Lưu 103). Nhưng cả hai đều được xem như đầu tàu vănchương của bộ lạc di cư tại hải ngoại. Chị có nghĩ đây là điểm nghịch lý không?Và Thụy Khuê là... fan của Mai Thảo hay Võ Phiến? TK: Câu hỏi này có 2 phần: Trước hết, Quỳnh Mai nói vềnghịch lý trong nhận định của tôi về Võ Phiến và Mai Thảo; theo tôi, không cónghịch lý: Hai nhà văn đối lập nhau về văn phong và cách sống, vẫn có thể cùng đứnghàng đầu trong một nền văn học. Mai Thảo có bút pháp lãng mạn thời thượng, được độc giả trẻmiền Namyêu mến. Sách ông best-sellers trong nhiều năm. Đã thời thượng như thế, thì dễlỗi thời, nhưng Mai Thảo không, và tôi đã phân tích lý do tại sao trong bài viếtvề Mai Thảo. Võ Phiến ngược lại, trước 75, không có nhiều người đọc. Vũ KhắcKhoan thấy văn Võ Phiến «tù lù mù», có lẽ bởi tác phẩm của Võ Phiến mô tả nhữngcon người tầm thường, những tình huống tầm thường, chuyện không có chuyện, chonên mới «tù lù mù» và không thể là best-sellers. Nhưng giá trị một tác phẩmkhông nằm trong sự bán chạy. Khi ra hải ngoại, sống trong hoàn cảnh di tản, conngười bị mất gốc rễ, mới tìm lại tác phẩm Võ Phiến. Đọc và khâm phục tài năng củaông. Điểm thứ nhì: Nếu nói về chữ fan, theo đúng nghiã củanó thì tôi không fan Mai Thảo và Võ Phiến. Fan ngụ ý mê say, tônsùng gần như mê muội, do cảm tính, trong khi người phê bình phải sáng suốt khảosát tác phẩm và nhất là phải giữ khoảng cách đối với tác giả. Cần phải nhớ rằng: Văn bản phê bình chỉ dành cho độc giả,không dành cho tác giả mà mình phê bình. Cho nên, nếu viết cho vừa lòng tácgiả, đôi lúc, chỉ sản xuất ra những văn bản nịnh bợ, sớm muộn gì cũng chết. KhiMai Thảo còn sống, vì thân thiết và quý mến ông, tôi tránh không viết gì, vìnghĩ mình sẽ không khỏi thiên vị khi viết về ông. Vì vậy, đối với Mai Thảo và Võ Phiến, tôi thích dùng chữ cảmphục hơn. Lấy lại ý của Georges Poulet khi nói về Mme de Staël (được coi lànhà phê bình ý thức đầu tiên của Pháp, cuối thế kỷ 17), Poulet cho rằng ý thứcphê bình của bà de Staël bắt nguồn từ ý thức cảm phục (admiration). Sự cảmphục phát tự đáy lòng khi đọc một tác phẩm hay, sẽ dẫn đến văn bản phê bình. Nếukhông có sự cảm phục này thì không có phê bình. Tôi cảm phục một số truyệnngắn, truyện dài, tuỳ bút của Võ Phiến và một số tiểu thuyết, truyện ngắn, tuỳbút và thơ của Mai Thảo. Thơ Võ Phiến không hay. Tôi không thích Võ Phiến trongcách ông phê bình văn học và Mai Thảo trong những bài sổ tay viết vội, theo lốitạc thù.
LQM : Nhà văn Trần Vũ nhắc đến Mai Thảo trong1 phỏng vấn của Chị rằng « ... Lúc sinh tiền, Mai Thảo thường nhắc, emkhông dụng chữ cho mục đích phi văn chương, không chửi ai, văn chương không phảilà chỗ cho em bựa. Em không được quyền... » Nhưng thực tế qua mấy thậpniên tại hải ngoại nói riêng, không ít lần văn chương bị... hiếp dâm không thươngtiếc cho mục đích... phi văn chương. Chị có cảm nghĩ gì về sự kiện đáng buồntrên? TK:Có lẽ Quỳnh Mai muốn nói đến hiện tượng dùng chữ tục,hay viết về sex để gây sốc phải không? Vậy tôi đề nghị chúng ta nên loại trừhai chữ hiếp dâm ra, bởi đó cũng là kiểu dùng chữ của một số người thíchgây sốc. Theo tôi, không có gì cấm kỵ cả: Chữ tục, nếu đặt đúng chỗ, có thể rấthay; nhưng nếu chỉ cốt gây sốc, nó sẽ phản tác dụng: cái viết trở thành tục tĩu.Viết sex, dễ trở thành dâm ô, phải có bản lĩnh cao cường lắm mới thànhcông. Tôi thấy Võ Đình và Nguyễn Bình Phương là những nhà văn viết về sex rất đạt.Cao Xuân Huy viết tục rất thành công. Văn bản trước tiên là một thực thể chữ nghiã,hay đến độ nào đó thì nó trở thành văn chương, dở, hoặc tục tĩu, hoặcdâm ô, nó sẽ bị đào thải, và cũng không ai gọi đó là văn chương. Mai Thảo chỉ muốn khuyên Trần Vũ nên thận trọng với chữnghiã, đừng dùng chữ vào việc chửi bới (dù người ta có thể khoác cho nó cái tênđẹp là tranh luận). Chữ nghiã, đối với nhà văn, là để phục vụ văn chương, khôngthể dùng vào những việc hạ tiện.
LQM : Hi vọng của nhà phê bình văn học ThụyKhuê cho văn chương hải ngoại? Chị có thích đọc tác phẩm trên Net, quaApple iPad chẳng hạn? TK: Văn chương hải ngoại ngày trước, là một nềnvăn học do người Việt miền Nam, di tản ra hải ngoại, thành lập, ly khai với nềnvăn học chính thống ở trong nước, xuất hiện từ 1975 đến 1995 và kéo dài đến2000, đỉnh cao là những năm từ 1987 đến 1990. Theo tôi, nền văn học này đã gầnnhư kết thúc. Ngày nay, những gì in hoặc đưa lên mạng tại hải ngoại, nên gọi làVăn học Việt Namcông bố ở nước ngoài. Những tác giả của nền Văn học hải ngoại, phần lớn là những nhà văn miền Nam, nay đãgià yếu hoặc qua đời. Các cây bút bắt đầu viết và nổi tiếng tại hải ngoại, naycũng đã nhiều tuổi, phần lớn đã gác bút, hoặc viết rất ít. Lý do thì nhiều lắm:vì hoàn cảnh sinh sống; vì không nói, không nghe thường xuyên tiếng Việt; vìkhông có nhiều người đọc; vì không có bạn văn để bàn bạc, tranh luận, thúc đẩy,tìm đề tài... Nếu họ muốn tiếp tục, thì phải tìm cách đi sâu vào tiểu thuyếthướng nội, có tính cách triết học, khám phá vùng tiềm thức của con người. Hoặcphải nhập vào đời sống của người bản xứ, để viết về con người và xã hội nhập cư.Ở hải ngoại chỉ có Võ Đình là thành công nhất. Còn thế hệ sinh ra hoặc lớn lên tại hải ngoại, không rành tiếngViệt, làm sao có thể đọc và viết tiếng Việt được? Tóm lại, toàn bộ người di tản trên khắp năm châu cũng chỉ độ2, 3 triệu, trong đó một nửa sinh sau 1975, một phần lớn đã già yếu; thành phầnhiểu và viết được tiếng Việt, còn lại bao nhiêu? Trong nước hiện nay có đến hơntám mươi triệu dân, vậy nhân tài trong nước, phải gấp sáu, bẩy mươi lần ởngoài nước, tính theo bình quân đầu người. Vì thế, những gì in trên sách báo hải ngoại và Internet hiệnnay, có thể nói quá nửa, là do người trong nước viết ra; vì không in được ởtrong nước, hoặc đã in ở trong nước rồi, muốn gửi ra ngoài để hải ngoại đọc; vìvậy nên tôi đề nghị gọi chung đó là nền Văn Học Việt Nam công bố ở nướcngoài. Hiện nay trên Internet, các đài phát thanh quốc tế như BBC,RFI, VOA, RFA, giữ vai trò chính yếu, cónhững đóng góp hàng đầu trong việc dân chủ hoá đất nước với những thông tin mớinhất, những vấn đề nóng bỏng nhất. Đó là phương tiện nhanh nhất để biết vềtình hình trong nước và thời sự quốc tế. Nhưng Internet là mộtcông cụ chuyển tải thông tin hơn là văn hoá. Văn hóa dưới các hình thức như kịch, opéra, cinéma, ca nhạc,bảo tàng,... có phát triển mạnh hơn nhờ sự giới thiệu của Internet. NhưngInternet không thay thế được nhà hát, rạp chiếu bóng, viện bảo tàng. Theo thốngkê, ngày nay người Pháp vẫn mua và đọc sách nhiều như thời chưa có Internet. Văn học được chuyển tải, nhờ Internet, qua các mạng báo điệntử. Ưu điểm: Bài viết được in ngay, không phải đợi chờ như các báo in. Nhược điểm:Một số mạng, vì cạnh tranh, muốn có nhiều bài lên trang mỗi ngày, cho nên khônglựa chọn, bài đến là đăng ngay, thượng vàng hạ cám, làm độc giả chán, vì thế đôikhi người ta chỉ đọc dăm ba bút hiệu quen thuộc. Mất tín nhiệm, đó là nguyên dotriệt hạ các ngòi bút mới, vì nhiều người không «mạo hiểm» đọc họ! Một số mạngtrở thành diễn đàn của các cuộc «tranh luận». Khi có vụ đánh đấm nào, vì tò mò,người ta vào đọc, sau đó trở lại tình trạng bình thường, thì họ lại chỉ lướtqua cho biết «mặt hàng» mà thôi. Ngày trước, người đọc mua các tờ Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn, vìbiết những bài đăng ở đấy đã được Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Lê Ngộ Châu, TrầnPhong Giao... lựa chọn rồi. Ngày nay, thơ văn trên mạng, vì quá nhiều, nên bị lạmphát. Đó là hiện tượng: nhiều thông tin giết thông tin, nhiều văn học giết vănhọc. Trở lại câu hỏi của Quỳnh Mai: Tôi ít khi đọc sáng tác trênInternet, trừ trường hợp các tác phẩm không in được ở trong nước hoặc các sáchcũ đã tuyệt bản. Tôi cũng ít tìm tài liệu trên Internet. Umberto Eco có kinhnghiệm về vấn đề này, nói đại ý: Khi cần tra cứu điều gì, nếu ấn vào con chuột,là có ngay 5, 6 ngàn thông tin trước mắt, mình lập tức bị tẩu hoả nhập ma,không biết chọn cái nào, từ đó ông cạch hẳn. Eco nói đùa nhưng cũng rất thực: muốn dùng thông tin trên Internet, trước hếtphải có khả năng lựa chọn cái đúng cái sai. Và khi phải lựa chọn như thế, nếumình có trước mắt vài cuốn sách tin được đến 80 hoặc 90% thì khoẻ hơn nhiều.Còn nếu phải mò mẫm trong mấy trăm thông tin xem cái gì dùng được thì thật rốimù, rất mất thì giờ. Thêm nữa, những gì về văn sử học Việt Nam có rất ít trênIntrenet, những thông tin của Wikipédia rất đáng ngờ, vì không kiểm chứng; ngaycả những sách biên khảo của Đào Duy Anh, Nguyễn Hiến Lê... cũng còn nhiều chỗ rấtsơ sài, đại cương, duy có sách Phan Huy Chú, Hoàng Xuân Hãn... là đáng tin cậy.Do đó, tôi chỉ dùng Internet trong những trường hợp đặc biệt mà thôi.
LQM : Được biết Chị là một người rất mê sách.Tác phẩm và tác giả nào chị ngưỡng mộ nhất? Một của Việt Nam? Một của nướcngoài? TK: Quỳnh Mai chỉ cho phép hai, thì xin chọn Phan Khôivà Jean Paul Sartre. Tôi cho rằng đó là những nhà văn toàn diện. Họ có ảnh hưởngđến dân tộc họ trong một giai đoạn dài. Đối với Việt Nam, Phan Khôi tiên phong trong cácngành: phê bình văn học, thơ mới, tranh luận văn học, phê bình Khổng giáo,tranh đấu cho nữ quyền... Ông còn có những đóng góp trong các lãnh vực dịch thuật,thơ và truyện ngắn. Phan Khôi là học giả đầu tiên đưa tinh thần phản biệnvào nghiên cứu, đưa tinh thần dân chủ vào đời sống Việt Nam. Là ngườilãnh đạo tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm, những đòi hỏi về dân chủ và tự do tư tưởngcủa Phan Khôi và NVGP, đến ngày nay, hơn một nửa thế kỷ qua, dân tộc ta vẫn cònchưa đạt được. Jean Paul Sartre làm thay đổi đời sống tinh thần của ngườiPháp trong thế kỷ XX: ông đem triết học hiện sinh vào phê bình và sáng tác.Truyện và kịch của Sartre làm khuynh đảo kịch trường, điện ảnh và đời sống tinhthần của người Pháp. Sartre đưa phê bình đến ngọn nguồn của chữ nghiã. TrướcSartre, người Pháp chưa có ý thức mạnh mẽ về bản thân. Sau Sartre, người ta cóý thức sâu sắc về bản thân: Con người là tổng kết của những gì mình đã làm đượctrong suốt cuộc đời. Nếu anh sinh ra, chỉ ăn để mà sống, rồi chết, thì anh cũngchả là cái gì. Từ đó phát sinh những suy nghĩ sâu lắng về thân xác, về tâm thân,về hành động và sự hiện hữu của con người.
LQM : Chắc hẳn tủ sách gia đình của chị thậtvô giá. Chị sẽ làm gì với những tác phẩm này, nếu ngày nào đó, ví dụ Chị khôngcòn khả năng giữ được nữa? TK: Quỳnh Mai muốn biết trước khi «tịch» thì tôi giaosách cho ai, phải không? Thật ra thì cũng chưa biết phải làm thế nào. Quý nhấtlà những bộ từ điển hiếm như: Génibrel (1898), Khai Trí Tiến Đức (Việt Nam tự điển)(1931), Gustave Hue (1937), Eugène Gouin (1957)... Từ điển Pháp Việt của ĐàoDuy Anh và của Đào Đăng Vỹ, cũng rất tốt, trong nước hình như chưa in lại. HánViệt, ngoài từ điển của Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Khôn, còn có bộ của Thiều Chửukhá đầy đủ. Phan Khôi nhận xét rất đúng: quốc ngữ phát xuất từ tiếng Bắc vì docác cha cố đến đàng ngoài trước, sáng chế ra theo tiếng Bắc, nhưng chỉ dùngtrong việc giảng đạo. Phải đến Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, chúng ta mớicó từ điển tiếng Việt thực thụ. Vậy từ điển quốc ngữ do người Nam làm ra. Đại Nam Quấc Âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của làgốc, đầy đủ và không có lỗi chính tả. Và cho đến bây giờ, bộ từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (ngườiNam)cũng vẫn là bộ đầy đủ nhất. Các từ điển in sau này ở Bắc, thiếu và sai nhiềulắm. Vậy những ai chủ trương lấy tiếng Bắc làm chuẩn thì nên xét lại.Tôi theo Phan Khôi: nghiã là tiếng Việtphải là tiếng toàn diện của các miền trên đất nước, từ Nam ra Bắc, không nên cómiền nào ưu tiên, được lấy làm chính ngữ, còn các miền khác là phương ngữ. Trong nhiều năm tôi giúp những người dịch Nguyễn Huy Thiệpsang tiếng Pháp, ngôn ngữ của Thiệp nhiều chữ hiếm, chữ cổ, các câu hát cổ, cáccách phát biểu theo lối xưa, đôi khi có hai ba nghiã, phải tra các từ điển cổvà đầy đủ như Génibrel, Gouin, Gustave Hue... để dịch sang tiếng Pháp, chọn lấymột chữ phù hợp với văn bản, sau đó phải kiểm chứng lại chữ này trong LarousseUniversel hoặc Littré xem có đúng với nghiã mà người Pháp dùng không. Nhưng bâygiờ người ta dịch nhanh lắm. Có người một năm dịch mấy cuốn sách dầy. Có người điPháp vài năm đã viết được sách tiếng Tây. Nhiều người cho rằng tiếng Việt ai cũngbiết, khỏi phải tra từ điển. Và khi dịch sang tiếng Pháp, chữ nào đã biết nghĩa,cứ thế mà dịch, không cần tra lại từ điển nữa. Vì những cẩu thả đó mà chúng tacó rất ít dịch phẩm tin được. Trở lại với vấn đề thư viện của tôi. Sau từ điển là đến cácsách ngày nay đã tuyệt bản, và trong nước vẫn cấm. Rồi những văn bản quý như bảndịch Hoa Tiên sang tiếng Pháp viết tay của Nguyễn Tiến Lãng. Bản viết tay NguyễnVăn Vĩnh dịch Kiều. Thư từ Mai Thứ viết cho Lê Thị Lựu. Thư Mai Thứ gửi HuỳnhTrung Đồng, lên án chính quyền cộng sản về việc thuyền nhân vượt biển, chất vấntại sao nhiều lần ông xin về Việt Nam dạy hội họa mà nhà cầm quyền cộng sản lờ đi.(Hoàng Xuân Hãn muốn về nước nghiên cứu ngay từ sau 1975, cũng bị chính quyền từchối). Thư của Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng về tình trạng tranh của ông dưới thờiông Diệm và sau ông Diệm. Bộ sưu tập tranh Lê Thị Lựu, dành trao cho viện bảo tàng, khi được bảo đảm không bị bán đingoại quốc, vv... Còn sách Pháp dễ kiếm hơn, và các sách của Văn học tiền chiến,Tự lực văn đoàn, Văn học miền Nam, Văn học hải ngoại, nhiều nơi đã có và cũng đượcđưa lên Internet khá nhiều. Tóm lại, có những tư liệu và văn bản quý, có thể gửi về thưviện và viện bảo tàng. Nhưng muốn gửi về trong nước cũng khó, ai nhận? Nhất lànhững sách quý ấy lại bị cấm. Chính bản thân tôi cũng chưa về được, còn nói gì đếnsách và tư liệu khác?
LQM : Chị có cảm tưởng gì về việc tạp chí Vănlặng lẽ biến mất khi người chủ biên cuối cùng còn hiện diện, cũng như tạp chí VănHọc... chết trước người chủ biên cuối cùng cả năm như vậy? TK: Tạp chí Văn ngừng, theo tôi biết là vì anh NguyễnXuân Hoàng lúc đó bị bệnh, thêm ngân quỹ càng ngày càng eo hẹp, đời sống khó khănkhông thể bỏ tiền túi ra in báo được nữa. Báo Văn Học thì vì Cao Xuân Huy bị ung thư mắt, phải mổ,không nhìn rõ thì làm sao layout được?
LQM : Xin chị phát biểu cảm nghĩ về sự ra đi vừaqua của Chủ biên tạp chí Văn Học và tác giả « Tháng Ba Gãy Súng »,nhà văn Cao Xuân Huy? TK: Tôi quen Cao Xuân Huy từ lần sang Cali, khoảng 1989. Lúc ấy, Huy đang làm thưký toà soạn Văn Học, hình như Huy làm hết, từ đánh máy, layout đến đem in, anhNguyễn Mộng Giác là chủ biên, trông coi bài vở. Anh Giác hồi đó đã than với tôilà Huy ba gai lắm, bài nào không thích Huy cho vào sọt rác ngay, dù tác giả lànhững người nổi tiếng. Tôi thích Huy ở cái tính ba gai đó. Năm 1991, tôi và Huycó chuyện không vui: trong một bài viết, Huy đả kích nặng nề cuốn Tiểu thuyếtvô đề của Dương Thu Hương do thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết (nxb Văn Nghệ) in vàtôi viết tựa, vì trong đó có đoạn «xúc phạm» đến quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Từđó, giữa tôi và Huy như có gì ngăn cách, sang Mỹ tôi không muốn gặp Huy nữa. Nhưnganh Giác nói với tôi «Huy muốn gặp chị», thế là tụi này lại «huề». Tình bạn trởlại như xưa. Huy ít nói, thân thể vạm vỡ, râu ria rậm rạp, mỗi lần gặp, Huy «ômhôn» kiểu rất Tây, và cũng biến mất rất nhanh. Ngồi ăn chung với các bạn trongbáo Người Việt, Huy chỉ tủm tỉm cười. Khi Huy làm lại tờ Văn Học, trong Emailgiục bài, bao giờ cũng chỉ vắn tắt: «Chị ơi, bài đâu, sao lâu quá!». Sau này,trong Hợp Lưu đặc biệt về Mai Thảo (số 100, tháng 5 và 6/2008), đọc bài củaHuy, tôi giật mình: Gặp Mai Thảo, Huy cũng... không chào! Giữa tôi và Huy nhưcó cái gì tri kỷ. Điều tôi ân hận nhất là đã không viết về Tháng Ba gẫy súngkhi Huy còn sống, đúng là «bụt nhà không thiêng». Nếu tôi cố ý không viết gì vềMai Thảo lúc ông còn sống, vì ông đã có quá nhiều tôn vinh phù phiếm, thì vớiCao Xuân Huy, không viết là một lỗi nghề nghiệp: bỏ qua một tác phẩm hay của mộtngười viết xứng đáng được giới thiệu như một nhà văn đích thực. Nhưng viết chậmcũng lại có cái may của nó, nhờ vậy mà bài Cao Xuân Huy mùa thu gẫy cánhcó được cái nhìn thông suốt cả cuộc đời và tác phẩm của Huy, mà nếu viết từ trướcthì không thể có đuợc.
LQM : Chuyện gì xẩy ra giữa chị và Dương Thu Hương«độ ấy»? TK: Chuyện qua 20 năm rồi, nếu Quỳnh Mai muốn biết,thì bây giờ cũng có thể kể lại sơ lược: Tháng 4/1991, nhà cầm quyền Hà Nội bắtDương Thu Hương. Việc này làm rung động dư luận, không những Việt nam, mà cả thếgiới, vì Dương Thu Hương lúc đó nổi tiếng là nhà văn can đảm hàng đầu dám trựcdiện với chính quyền cộng sản. Cùng lúc ấy thì văn bản Tiểu thuyết vô đề đượcgửi ra ngoại quốc. Một người bạn của Dương Thu Hương, nay chuyện đã cũ, tôi cóthể nói rõ, người ấy là Bạch Thái Quốc, đưa văn bản cho tôi, nhờ viết tựa và gửisang Mỹ in. Thầy Từ Mẫn nhận in, mặc dù lúc ấy việc in sách ở trong nước đang bịchống đối dữ dội, và thầy cũng muốn tôi viết tựa, vì trong sách có những đoạn«nhậy cảm» có thể gây sốc cho quân đội Việt Nam Cộng Hoà và cộng đồng di tản.Vì muốn tác phẩm, mà tác giả đang bị tù, sớm ra đời, cho nên tôi đã nhận lời viếttựa, mặc dù tác giả không nhờ. Khi Dương Thu Hương ra khỏi tù, năm 1992, chị viếtbài Tự bạch về Tiểu thuyết vô đề, nói rõ lập trường của mình và phản bácmột số lập luận của tôi (mà chị gọi là ông Thụy Khuê) trong bài tựa. Tôi viếtbài trả lời, nói rõ lý do in ấn và giải thích từng điểm trong bài viết của tôi.Sau đó, Dương Thu Hương viết lá thư xin lỗi và tôi cũng viết lời chân thành cảmơn chị. Tất cả những văn bản này đều được đăng rộng rãi trên báo chí hải ngoạithời đó.
LQM : Lần cuối cùng chị về Việt Nam là năm nào? TK: Tháng 9/1997.
LQM :Vì cớ gì chị không trở lại? Chị có «nhớ nước»không? TK: Làm người ai chẳng nhớ nước. Tôi rời Hà Nội tháng10/1954 lúc mới lên mười. Rời Sài Gòn tháng 9/1962, năm 18 tuổi, đi du học rồi ởlại Pháp. Từ đó đến nay, chỉ về nước có 4 lần: Hè 1974, về Sài Gòn. Tháng8/1984, về Sài Gòn lần thứ nhì và ra Hà Nội. Tháng 9/1993, về Hà Nội rồi đi Huế,vào Sài Gòn. Tháng 8/1997, lần thứ tư, về nước gặp khó khăn, nhiều năm saukhông muốn về nữa. Mùa thu năm 2004, vì có nghị định số... gì đó về Việt kiều, đạiý nói mọi người đều về được. Chúng tôira hãng du lịch mua 2 vé, khai rõ ràng tên thật, cả bút hiệu, nghề nghiệp và nơilàm việc... và được họ «bảo đảm» là không bị khó khăn gì vì đã có nghị định mới.Hơn tháng sau, gần đến ngày khởi hành, mới được báo tin: «Chúng tôi đã xin hếtcác cửa khẩu, Sài Gòn, Đà Nẵng và Hà Nội, chị bị cấm cả ba». Hiểu tình thế,chúng tôi chỉ nhờ họ xin nhà chức tráchghi rõ lý do, để có thể đòi hãng máy bay hoàn lại tiền vé, nhưng nhà chức tráchkhông trả lời. Từ ngày đó tôi không «xin về» nữa, bởi vì đi về nơi chôn rau cắtrốn là quyền tuyệt đối của con người. Mình chỉ có thể bị cấm khi làm chuyện phạmpháp. Tất cả mọi cấm đoán khác chứng tỏ sự lạm pháp của nhà cầm quyền.Những bậc tiền bối lẫy lừng như Hoàng Xuân Hãn, Mai Thứ... đều đã kinh qua. Tôichẳng cần phải nói gì thêm nữa.
LQM : Tuy vậy, với cương vị là nhà phê bình vănhọc, chắc chị vẫn theo dõi tình hình văn chương trong nước? Theo chị, có cởi mởhơn không? Chị nghĩ thế nào về việc in ấn phát hành tác phẩm của một số tác giảhải ngoại, khi họ trở về thăm Việt Nam? TK: Mới đây Nguyễn Thanh Sơn có tuyên bố đại khái rằng:Ở hải ngoại có tự do mà các nhà văn cũng chẳng viết được gì. Còn ở trong nước,người viết cũng rất tự do, cứ việc viết rồi đăng trên Internet thì có ai cấm đâu,vậy mà cũng chẳng có tác phẩm hay. Ý Nguyễn Thanh Sơn muốn nói là bây giờ đã tự do lắm, chỉ tại không có ai viết ra hồn đó thôi. Tóm lại, theo Sơn, tự dolà tại mình, mình sợ, mìn

© 2016 About Us | Terms & Conditions