VIỆT NAM MẮC KẸT GIỮA HAI SIÊU CƯỜNG TRONG TRÒ CHƠI QUYỀN LỰC MỚI (Nguyễn Quang Dy - Viet-Studies)




Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường trong trò chơi quyền lực mới 

Nguyễn Quang Dy

15/6/2018

http://www.viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_GiuaHaiSieuCuong.html


Lời mở đầu


Tại hội thảo hè năm ngoái (31/8/2017), tôi có góp một bài (Việt Nam cô đơn trong một thế giới bất an và bất định, NQD, Viet-studies, 14/8/2017). Lúc đó chính quyền Trump chưa định hình chiến lược (chưa có NDS, NSS, và NPR), chưa tuyên bố tầm nhìn Indo-Pacific và chưa khởi động lại nhóm “Tứ cường” (Quad) gồm Mỹ-Nhật-Ấn-Úc. Trung Quốc chưa họp Đại hội Đảng 19, “Tư tưởng Tập Cận Bình” chưa được ghi vào Điều lệ Đảng, và Quốc hội chưa bỏ hạn chế hai nhiệm kỳ để Tập Cận Bình cai trị Trung Quốc như “Hoàng đế Đỏ”. Khủng hoảng tên lửa và hạt nhân Triều Tiên còn là nỗi ác mộng, và triển vọng gặp cấp cao Liên Triều và Mỹ-Triều chưa trở thành hiện thực. Việt Nam và Repsol buộc phải dừng khoan dầu khí tại lô 136-03 vì Trung Quốc dọa tấn công Trường Sa, nhưng chưa dừng dự án Cá Rồng Đỏ (lô 03-07). Hội nghị cấp cao APEC chưa diễn ra và mẫu hạm USS Carl Vinson chưa tới thăm Đà Nẵng. Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh chưa ra tòa và Trương Minh Tuấn vẫn vô can. Út Trọc, Vũ Nhôm và các tướng công an Nguyễn Thanh Hóa, Phan Văn Vĩnh và Phan Hữu Tuấn chưa bị bắt. Lúc đó, TW6 và TW7 chưa họp và “người đốt lò vĩ đại” chưa bắt hổ bỏ lò. Ông Trần Đai Quang (và Đinh Thế Huynh) mới “biến mất”, nhưng chưa “tái xuất”… Những góc khuất về quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm chưa bị dư luận lên án như một đại án…

Sang năm Mậu Tuất (2018), về đối ngoại, Việt Nam đứng trước một bước ngoặt mới khi Mỹ điều chỉnh chiến lược. Trung Quốc từ đối tác chiến lược nay trở thành “mối đe dọa lớn nhất” đối với Mỹ (theo NDS). Biển Đông đang trở thành thùng thuốc súng (hay “cái bẫy Thucydides”). Triển vọng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung báo hiệu một giai đoạn mới bất ổn. Trong khi quan hệ Mỹ-Trung ngày càng xấu đi, quan hệ Liên Triều và Mỹ-Triều đang tốt lên với cuộc gặp cấp cao Moon-Kim và Trump-Kim đầy kịch tính. Về đối nội, tuy Hội nghị TW7 (7-12/5/2018) chưa thay đổi nhân sự chủ chốt giữa kỳ (như đồn đoán), nhưng là một sự kiện đầy kịch tính (vì làm đảo lộn các dự đoán về nhân sự trước đó). Trong khi “người đốt lò vĩ đại” thúc đẩy chống tham nhũng và muốn sắp xếp lại nhân sự (đặc biệt là cán bộ “cấp chiến lược”), nhưng cái lò vẫn “lúc nóng lúc lạnh” (hay “trên nóng dưới lạnh”). Việt Nam vẫn mắc kẹt giữa hai siêu cường trong trò chơi quyền lực mới, trong khi vẫn chưa cải tổ thể chế.

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà “lịch sử đã cáo chung” (the end of history, Franscis Fukuyama) và “quyền lực cũng cáo chung” (the end of power, Moises Naim). Tuy nền dân chủ tự do (liberal democracy) chưa cáo chung, nhưng nhiều người thừa nhận nó đang thoái trào (liberalism is in retreat) trong khi chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy (Protectionism is on the rise), cùng với chủ nghĩa dân túy (populism) và chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Trật tự thế giới tự do (liberal world order) gồm ba thành tố là “tự do” (liberalism), “toàn cầu” (universality) và duy trì trật tự (preservation of order) lần đầu tiên đang bị thách thức nghiêm trọng. Sự suy thoái của trật tự thế giới tự do là vì nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là do thái độ của Mỹ thay đổi dưới thời Tổng thống Donald Trump. Việc Mỹ từ bỏ vai trò truyền thống của mình từ sau chiến tranh thế giới, vì khẩu hiệu “nước Mỹ trên hết” (America first), đã tạo ra một bước ngoặt. Trật tự thế giới tự do không thể tự nó tồn tại mà không có Mỹ. Trong khi đó, xung đột lợi ích giữa các nước lớn (great power rivalry) đang tăng lên, làm thế giới ngày càng bất ổn. (Liberal World Order, R.I.P., Richard Haass, Project Syndicate, March 21, 2018).

Sau nhiều thập kỷ bị lôi cuốn vào chiến tranh cách mạng liên miên, Việt Nam đến nay vẫn chưa thoát ra khỏi ngã ba đường ý thức hệ, trong khi trật tự thế giới đã thay đổi. Sau mấy thập kỷ cải cách kinh tế, Việt Nam vẫn tụt hậu so với các nước láng giềng. Trong khi những động lực đổi mới kinh tế đã hết đà, Việt Nam vẫn chưa cải tổ thể chế để tạo ra động lực mới. Lợi ích nhóm và “lỗi hệ thống” đang làm triệt tiêu thành quả cải cách và cản trở xu thế đổi mới. Nếu Việt Nam không cải tổ thể chế kịp thời để tháo gỡ các nút thắt chính, mọi cố gắng cải cách kinh tế và chống tham nhũng có thể là “quá ít và quá muộn” (too little too late).

Trong bài này, tôi sẽ trình bày mấy lát cắt để phác họa thực trạng một thế giới hỗn loạn mà Việt Nam bị mắc kẹt giữa hai siêu cường (Mỹ-Trung) trong trò chơi quyền lực mới. Phần 1 (Mỹ đang ở đâu) đề cập đến ngộ nhận của Mỹ về Trung Quốc, và điều chỉnh chiến lược hiện nay của chính quyền Trump. Phần 2 (Trung Quốc đang ở đâu) đề cập đến “Hoàng đế Đỏ” lên ngôi và nghịch lý mô hình Trung Quốc. Phần 3 (ASEAN đang ở đâu) đề cập đến nghịch lý ASEAN và Biển Đông, trước tầm nhìn chiến lược mới Indo-Pacific. Phần 4 (Bài học Triều Tiên) đề cập đến cấp cao Liên Triều và Mỹ-Triều như một bước ngoặt lịch sử. Phần 5 (Việt Nam đang ở đâu) đề cập đến nghịch lý chống tham nhũng và đổi mới thể chế. Hy vọng bài này cung cấp một bức tranh toàn cảnh (tour de force) làm tài liệu tham khảo cho hội thảo.


Phần I: Nước Mỹ đang ở đâu


Sau hơn bảy thập kỷ tồn tại, Liên Xô đã sụp đổ (collapsed), nhưng con gấu Nga đã trỗi dậy từ đống tro tàn Soviet để (một lần nữa) trở thành siêu cường quân sự. Nga hoàng Putin thách thức Mỹ không chỉ ở Ukraine và Syria mà còn thọc tay vào bầu cử Mỹ. Sau hai thập kỷ cầm quyền, Trung Quốc cũng đổ vỡ (emploded), nhưng người khổng lồ Trung Quốc đã trỗi dậy từ đống tro tàn của Cách mạng Văn hóa để trở thành siêu cường kinh tế (như Frankeinstein). Hoàng đế Đỏ Tập Cận Bình đang thách thức Mỹ không chỉ tại Biển Đông, bán đảo Triều Tiên và Biển Hoa Đông, mà còn với tay sang tận Châu Âu, Châu Phi, và Nam Mỹ…

Nước Mỹ cũng thoái hóa (decayed), làm cử tri bất bình bỏ phiếu cho một tỷ phý mỵ dân, để làm “Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng Trump không giống Putin (được KGB đào tạo), cũng không giống Tập (được Đảng dậy dỗ), mà giống một lái buôn thất học nhưng tự phụ (hay một “thiên tài ổn định”). Nhà Trắng là một đống lộn xộn (a mess) gồm “trục người lớn” đấu nhau với hội trẻ con. Trong khi Ngoại trưởng (Tillerson và Pompeo) không thạo ngoại giao, các cố vấn chủ chốt về kinh tế và thương mại cãi nhau như chợ búa. Để đối phó với Trung Quốc, Trump rút khỏi TPP. Để đối phó với biến đổi khí hậu, Trump rút khỏi Hiệp định Paris. Để đối phó với Trung Đông, Trump rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran. Để đàm phán với Kim Jong-un, Trump thay đổi ý định đến chóng mặt, làm cả đồng minh và đối phương ngao ngán.

Đó là phác họa nước Mỹ ở đâu trong bức tranh toàn cảnh về một “trật tự thế giới hỗn loạn” (a world disorder), để cố hiểu Mỹ đang điều chỉnh cái gì, và điều chỉnh thế nào. Trong khi Trump tưởng nước Mỹ có thể triệt thoái trách nhiệm để biệt lập (isolationism) thì bức tranh hỗn loạn trên toàn cầu vẫn tác động vào chính trường Mỹ (như vụ điều tra vai trò của Nga trong bầu cử). Ngược lại, những gì đang diễn ra tại Mỹ cũng tác động đến toàn cầu. Muốn hay không, thế giới ngày nay vẫn phụ thuộc lẫn nhay ngày càng nhiều (như hệ thống Uber).


Mỹ đã ngộ nhận về Trung Quốc thế nào

Người ta đã nói nhiều về hiện tượng Trung Quốc trỗi dậy như người khổng lồ tỉnh giấc hay quái vật “Frankenstein” (lời Richard Nixon) đang muốn thay đổi trật tự thế giới cũ (do Mỹ cầm đầu). Người ta cũng bàn nhiều về nguyên nhân Trung Quốc trỗi dậy gây bất ổn như hiện nay, không phải chỉ do nội lực Trung Quốc mà còn do chính sách Trung Quốc của Mỹ đã nuôi dưỡng và giúp nó lớn mạnh, để trở thành “mối đe dọa lớn nhất” đối với Mỹ (nhận định của NDS). Không chỉ ông Henry Kissinger (là kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc) mà một thế hệ các chính khách và học giả Mỹ đã chủ trương “can dự xây dựng” (constructive engagement) với Trung Quốc suốt mấy thập kỷ qua, cho đến gần đây mới bắt đầu tỉnh ngộ.

Theo Michael Pillsbury,“Mấy thập kỷ qua, Chính phủ Mỹ đã dễ dãi cho Trung Quốc thông tin nhạy cảm, công nghệ, kinh nghiệm quân sự, tin tức tình báo, tư vấn chuyên môn. Thật vậy, có quá nhiều thứ được cho trong thời gian quá lâu… nên không thể tính toán đầy đủ. Và những gì chúng ta không cho thì người Trung Quốc lấy trộm”. Người Mỹ tưởng “Viện trợ cho Trung Quốc lúc còn yếu để lãnh đạo họ cũng suy nghĩ như chúng ta, sẽ giúp Trung Quốc trở thành cường quốc dân chủ và hòa bình, không có tham vọng”. Nay Pillsbury coi sai lầm của Mỹ là “một thất bại về tình báo nguy hiểm và quan trọng có tính hệ thống trong lịch sử nước Mỹ”. (The Hundred Year Marathon, Michael Pillsbury, MacMillan, 2015).

Tuy Mỹ không muốn thấy Trung Quốc bá đạo như hiện nay, nhưng người Mỹ đã vô hình trung góp phần quan trọng tạo ra con quái vật Frankenstein. Người Mỹ bị người Trung Quốc lừa gạt không bằng họ tự lừa gạt chính mình. Tuy người ta có thể lý giải hiện tượng đó bằng “hệ quả không định trước” (unintended consequence), nhưng không thể phủ nhận sự thật là người Mỹ đã ngộ nhận về người Trung Quốc (hai lần), mặc dù Mỹ có nhiều viện nghiên cứu (think tanks) đẳng cấp thế giới. Có những nghịch lý và ngộ nhận làm tầm nhìn của nhiều người giỏi bị che khuất và trở thành ngây thơ. Một số người Mỹ tỉnh táo nhận ra nguy cơ và cảnh báo, nhưng đáng tiếc chính quyền không lắng nghe họ. Ví dụ, khi John Kennedy muốn đưa quân vào Việt Nam để can thiệp quân sự, George Ball (thứ trưởng ngoại giao) đã can ngăn và cảnh báo, nhưng họ không lắng nghe, nên đã mù quáng tham chiến, dẫn đến thảm họa.

Năm 1965, quân Mỹ đã đổ bộ vào Đà Nẵng để đánh Việt Cộng và ngăn chặn Trung Quốc (theo “thuyết Domino”). Sau hơn năm thập kỷ, nay tàu sân bay USS Carl Vinson đến Đà Nẵng không phải để đánh Việt Cộng, mà để răn đe Trung Quốc. Kẻ thù và đồng minh có thể thay đổi, nhưng lợi ích quốc gia không thay đổi. Việt Nam mời Trump thăm Việt Nam và họp cấp cao APEC Đà Nẵng cũng như đón USS Carl Vinson nhằm răn đe Trung Quốc. Lịch sử là một trò chơi dễ làm những ai vô minh bị ngộ nhận. Vì vậy, muốn điều chỉnh chiến lược, cần điều chỉnh hệ quy chiếu và hệ điều hành để có tầm nhìn mới. Thật bất cập khi hai đối tác (hay đối thủ) trong một trò chơi được vận hành bởi hai hệ quy chiếu và hệ điều hành khác hẳn nhau.

Trong khi người Trung Quốc tư duy chiến lược theo Binh pháp Tôn Tử thì chắc người Mỹ tư duy chiến lược theo binh pháp của Clausewitz mà McNamara và các đồng sự là học trò xuất sắc (nhưng đã thất bại ở Việt Nam). Có những nghịch lý và bất cập làm người ta ngộ nhận về đối phương, nhầm lẫn mục đích và phương tiện (như trong chiến tranh Việt Nam). Đó là “một cuộc chiến sai lầm, chống một kẻ thù sai, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, vì những mục đích sai” (a wrong war against a wrong enemy, in a wrong place, at a wrong time, for wrong purposes). Người Mỹ đã lặp lại sai lầm đó tại Iraq và Afganistan…

Trật tự thế giới là một khái niệm tương đối (relative concept), thường do “bên thắng cuộc” định ra sau chiến tranh (như Pax Americana) và duy trì nó (như một hằng số). Trong khi đó, “bên thua thiệt yếu hơn” (như Trung Quốc) đã trỗi dậy đủ lông đủ cánh và móng vuốt như con rồng hung dữ (hay Frankenstein), do sai lầm và ảo tưởng của Mỹ, đang đòi thay đổi nguyên trạng (như một biến số). Về chính trị quốc tế, đó là câu chuyện “cái bẫy Thucydides” mà Grham Allison lý giải tại sao con rồng Trung Quốc lại thách thức con đại bàng Mỹ. Về chính trị quốc gia, đó là câu chuyện “Trumpism” (tại Mỹ) và Brexitism” (tại Anh), khi cử tri bất bình nổi dậy bằng lá phiếu (dân chủ) để thay đổi nguyên trạng. Đó là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc (nationalism) và chủ nghĩa dân túy (populism) từ Tây Âu sang Đông Âu (như Hungary và Ba Lan hiện nay), đang đe dọa nền dân chủ và sự toàn vẹn của EU.

Theo Graham Allison, quả lắc đã đổi chiều (the pendulum has now swung) khi toàn bộ hệ thống chính trị và cộng đồng an ninh quốc gia Mỹ đánh giá lại cơ bản về Trung Quốc. Washington đã tỉnh giấc với tâm trạng “cảnh giác, lo lắng, và bất an” (alarm, anxiety, angst) khi phát hiện Trung Quốc (là Frankenstein hay juggernaut) không chỉ trỗi dậy mà còn thách thức Mỹ. Trung Quốc từ “đối tác chiến lược” (strategic partner) nay thành đối thủ chiến lược” (strategic rival). Triển vọng chiến tranh thương mại “cùng hủy diệt” (mutually destructive tariff war) làm cho Mỹ và Trung Quốc đối đầu như hai kẻ mê ngủ (sleepwalking). Trong trò chơi nguy hiểm đó, ngộ nhận, tính toán nhầm, và rủi ro thường bị “phóng đại” (magnified).

Những người dân túy và thực dụng (như Donald Trump và Steve Bannon) đã khôn khéo lợi dụng thời cơ và dùng ngọn cờ dân tộc (nationalism) biệt lập (isolationism) để chống lại toàn cầu hóa (globalization), và chủ nghĩa quốc tế (internationalism). Họ lợi dụng khẩu hiệu “America First” để tấn công vào trật tự dựa trên toàn cầu hóa và tự do dân chủ. Dù Bannon (cố vấn chính của Trump) phải rời Nhà Trắng, nhưng Bannonism vẫn còn ảnh hưởng như một phong trào (quốc gia và quốc tế), và Trump còn cầm quyền ít nhất ba năm nữa.

Sự đảo lộn trật tự quốc gia và quốc tế không có nghĩa Trumpism đúng hay Clintonism sai mà thể chế quyền lực (establishment) của Mỹ và phương Tây đã suy tàn (decayed). Francis Fukuyama đã cảnh báo về “sự cáo chung của lịch sử” (The End of History? National Interest, 1989) và Bill Gates đã từng đề xuất thay thế chủ nghĩa tư bản công nghiệp đã lỗi thời bằng “chủ nghĩa tư bản sáng tạo” (creative capitalism). Nhưng nếu người Mỹ chậm chân thì người Trung Quốc sẽ nhanh tay thay thế bằng chủ nghĩa tư bản mang “đặc sắc Trung Quốc” với “Tư tưởng Tập Cận Bình” (Xi Jinpingim) vừa lên ngôi “Hoàng đế ”. Một năm sau khi Trump lên cầm quyền, Fukuyama lo ngại cảnh báo: “Chúng ta đang chứng kiến mối đe dọa mà tôi nghĩ chúng ta chưa bao giờ thấy trong cuộc đời”. (The Post World War II Order Is Under Assault From the Powers That Built It, Peter Goodman, New York Times, March 26, 2018).

Trong cuốn sách mới “Nền Dân chủ Kết thúc Thế nào” (How Democracy Ends), tác giả David Runciman lập luận rằng chúng ta đang bị mắc kẹt trong tư duy thất bại về nền dân chủ đã lỗi thời của thế kỷ 20… Chúng ta phải đổi mới tư duy một cách khác biệt (unthinkable) theo tầm nhìn thế kỷ 21 về sự kết thúc của nền dân chủ, và xem liệu nó có giúp chúng ta đi đến một kết cục tốt hơn không. Theo Edward Lucas, các cử tri giận dữ và vô cảm đã cạn tình với chế độ như đang đối mặt với “khủng hoảng tuổi trung niên” (midlife crisis)… Nền dân chủ đang sống mòn với dĩ vãng huy hoàng, và trở nên “mệt mỏi, thù hận, hoảng loạn, tự dối mình, vụng về và thường vô vọng” (tired, vindictive, paranoid, self-deceiving, clumsy and frequently ineffectual). Người ta có thể đổ lỗi về kết quả bỏ phiếu bất ngờ (như Brexit) cho những kẻ độc ác thắng cử do lừa gạt được những người ngu ngốc”. (How Democracy Ends, David Runciman, Basics Books, 2018. Reviewed by Edward Lucas, Sunday Times, May 26, 2018).

Hầu hết các học giả Mỹ và phương Tây đều tin rằng dân chủ và tư bản luôn đồng hành, rằng cải cách kinh tế đòi hỏi và thúc đẩy cải cách chính trị. Nhưng thực tế Trung Quốc đã thách thức logic này và dẫn đến hai kết luận trái ngược nhau. Nhóm thứ nhất cho rằng cải cách sẽ diễn ra và dự đoán chế độ độc tài sẽ sụp đổ. Nhóm thứ hai tin rằng thành công của Trung Quốc chứng tỏ độc tài cũng tốt như dân chủ để thúc đẩy phát triển. Nhưng cả hai cách lý giải đó đều bỏ qua một thực tế quan trọng là từ khi mở cửa thị trường (1978) Trung Quốc đã cải cách chính trị, nhưng không theo cách mà phương Tây mong đợi. Họ chỉ cải cách hành chính để tạo ra một hệ thống lai ghép độc đáo giữa thể chế độc tài với các đặc tính dân chủ (autocracy with democratic characteristics). Trên thực tế họ chuyển đổi bộ máy hành chính cộng sản sơ cứng thành bộ máy tư bản hoạt dụng. Nhưng về lâu dài, chỉ cải cách hành chính không thể thay thế được cải cách chính trị, vì khi xã hội càng giàu có hơn, thì những hạn chế sẽ bộc lộ.

Một số học giả Mỹ và phương Tây lý giải rằng kinh nghiệm của Trung Quốc chứng tỏ cách tốt nhất để dân chủ hóa là lai ghép cải cách vào các thể chế truyền thống sẵn có (kiểu Mark-Le). Nói cách khác, đổi mới chính trị bằng cách dựa vào một hệ thống sẵn có sẽ phù hợp hơn là tìm cách nhập khẩu một hệ thống mới hoàn toàn từ bên ngoài. Mọi người đều muốn hưởng lợi từ dân chủ, nhưng sẽ sai lầm nếu các chính khách cho rằng chỉ có dân chủ bằng cách áp dụng hệ thống chính trị của Mỹ. Các chính thể độc tài khác muốn bắt chước Trung Quốc không nên chọn bài học sai lầm. Thành công kinh tế của Trung Quốc không phải là bằng chứng rằng cứ áp đặt ý chí từ trên xuống và đàn áp sáng kiến từ dưới lên là sẽ hiệu quả. (Autocracy With Chinese Characteristics, Yuen Yuen Ang, Foreign Affairs, April 16, 2018).

Tôi từng ngưỡng mộ giáo sư Graham Allison, nhất là các tác phẩm kinh điển của ông phân tích vụ Khủng hoảng Tên lửa Cuba (Essence of Decisison: Explaining the Cuban Missile Crisis, Grham Allison, 1ed. Little Brown 1971; Essence of Decision: Explaining the Cuban Missile Crisis, Graham Allison & Philip Zelikow, 2ed. Longman, 1999). Nhưng tôi không thực sự tán thành quan điểm của ông khi cho rằng hai nước lớn Mỹ và Trung Quốc sẽ không tránh được “cái bẫy Thucydides” (Destined for War: Can America and China Escape Thucydides’s Trap? Graham Allison, Harcourt, 2017; How Trump Could Stumble from a Trade War Into a Real War with China, Grham Allison, National Interest, April 20, 2018.

Thuyết “cái bẫy Thucydides” của Graham Allison dựa trên tiền đề có 12/16 trường hợp trong lịch sử (500 năm) dẫn đến chiến tranh. Tuy đó là một đa số tuyệt đối (về lượng) nên khá thuyết phục, nhưng chưa phải là quy luật (về chất) nên còn tranh cãi. Trong thực tế, khi thời gian và không gian thay đổi thì xác suất đúng hay sai cũng thay đổi. Tuy lý thuyết “cái bẫy Thucydides” rất có ích để phân tích và cảnh báo, nhưng vận dụng nó vào thực tế cụ thể lại là chuyện khác. Nếu Allison định vận dụng thuyết này để khuyến cáo chính quyền Trump chấp nhận “quan hệ nước lớn” (great power relations) với Trung Quốc (như Grand Bargain với Nga), thì Allison có thể vô tình mắc mưu Bắc Kinh (playing into their hands).

Tuy sự trỗi dậy của Trung Quốc và Trumpism làm nhiều người cho rằng “thế kỷ Mỹ” đã qua rồi, nhưng Joseph Nye tin rằng Mỹ vẫn có “những lợi thế quan trọng về quyền lực” trên toàn cầu cũng như tại vùng Châu Á-Thái Bình Dương, và điều này sẽ kéo dài đến “bốn hoặc tám năm nữa”. Hiện nay tất cả các nước Châu Á đều buôn bán với Trung Quốc nhiều hơn Mỹ (thường với tỷ lệ gấp đôi). Nhiều người Châu Á lo ngại Mỹ không thể duy trì vai trò lãnh đạo thế giới sau những năm Trump cầm quyền, nhưng họ không đồng thuận về “Châu Á sau Trump”. Nhiều người Mỹ và người Châu Á cũng bất đồng về triển vọng giải quyết thành công cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên, và không biết liệu có tránh được cuộc chiến tranh Trung-Mỹ tất yếu hay không. Một số người Châu Âu lại băn khoăn không biết liệu tình trạng bất ổn trên toàn cầu hiện nay phản ánh sự trỗi dậy của Trung Quốc hay của Trumpism.

Nhưng Joeseph Nye không quá bi quan về sự trỗi dậy của Trung Quốc, và không cho rằng chiến tranh Trung-Mỹ là một định mệnh (như Graham Allison lý giải). Joseph Nye tin rằng Mỹ vẫn có những lợi thế quan trọng về quyền lực, để vượt qua tám năm cầm quyền của Trump (nếu ông được tái cử). Joeseph Nye lập luận rằng Mỹ có sáu lợi thế cơ bản so với Trung Quốc: Thứ nhất là thành phần dân số tốt hơn (demography), thứ hai là nguồn năng lượng tốt hơn (energy), thứ ba là công nghệ tốt hơn (technology), thứ tư là hệ thống đại học tốt hơn (higher education), thứ năm là vai trò của đồng đô la (the role of the dollar), thứ sáu là vị trí địa lý tốt hơn (geography). (Asia After Trump, Joseph Nye, Project Syndicate, April 9, 2018).

Theo Minxin Pei, thái độ thất thường của Donald Trump về Trung Quốc chứng tỏ ông ta không có tầm nhìn chiến lược và kinh nghiệm ngoại giao để có một chính sách ổn định về chiến lược (chứ chưa nói gì đến học thuyết). Vì vậy, định hướng quan hệ Trung-Mỹ trước mắt có thể là “xung đột đổi chác” (transactional conflict) với đặc điểm là thường xuyên tranh chấp về kinh tế và ngoại giao, xen kẽ với hợp tác. Trong bối cảnh đó, căng thẳng song phương sẽ gia tăng, và xung đột riêng lẻ sẽ được giải quyết riêng biệt trên nguyên tắc “ăn miếng trả miếng” (quid pro quo), do đó sẽ thiếu sự nhất quán về chiến lược (strategic coherence). Tuy nhiên, quan hệ Trung-Mỹ từ các tranh chấp cụ thể có thể bị xô đẩy dẫn đến xung đột lâu dài. Dù xung đột kiểu gì thì cả hai bên sẽ đều sẽ thua thiệt, làm cho Châu Á và thế giới bất ổn định. (The Shape of Sino American Conflict, Minxin Pei, Project Syndicate, June 6, 2018).


Mỹ đang tỉnh ngộ và điều chỉnh chiến lược

Dưới thời Tổng thống Obama, người Mỹ đã nhận ra sai lầm chiến lược và quyết định “xoay trục” sang Châu Á (Asia Pivot) sau đổi thành “tái cân bằng” (rebalance). Nhưng sự điều chỉnh chiến lược đó vẫn là “tiếng kèn ngập ngừng” (uncertain trumpet). Tổng thống Obama đã nổi tiếng với khẩu hiệu “lãnh đạo từ phía sau” (leading from behind). Tuần tra trên Biển Đông (FONOP) được tiến hành bằng cách “đi qua vô hại” (innocent passage), để tránh gây căng thẳng với Trung Quốc nhằm “tránh rủi ro” (risk aversion). Đó là một nước cờ ngập ngừng bị người Trung Quốc nắm thóp và khai thác triệt để. Một số người đã cảnh báo nếu Mỹ hành động “quá ít và quá chậm” (too little too late) sẽ không đủ mạnh để răn đe Trung Quốc, mà còn bị họ lợi dụng để phân hóa đồng minh của Mỹ (như Philippines và Thailand). Liệu điều chỉnh chiến lược mới (NDS) là một sự “đột phá” (breakthrough) hay chỉ là “bình mới rượu cũ” như “trở về tương lai” (back to the future) để lặp lại “tiếng kèn ngập ngừng?”

Đầu năm 2018, Nhà Trắng lại tiếp tục thay đổi nhân sự, với sự ra đi của Gary Cohn (chief economic advisor), Rex Tillerson (state secretary), McMaster (NSC Chairman). “Trục người lớn” (Axis of Adult) trong chính quyền chỉ còn lại James Mattis (defense secretary) và John Kelly (White House chief of staff). Với sự bổ nhiệm Mike Pompei (CIA director) thay Rex Tillerson, và John Bolton (ex UN ambassador) thay McMaster, và nâng cấp cho Peter Navaro (national trade advisor), nay phái “diều hâu” trong Nhà Trắng được tăng cường với một loạt nhân vật “bảo thủ mới” (Neocons) có quan điểm cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và Trung Đông. Sự thay đổi nhân sự này chắc phản ánh điều chỉnh chiến lược mới (NDS và NSS) cũng như quan điểm bảo thủ “America First”của Trump (ít nhất trong ba năm tới). Quyết định bỏ thỏa thuận hạt nhân Iran là ví dụ mới nhất và nghiêm trọng nhất của chính quyền Trump theo chủ nghĩa đơn phương. Quyết định này không chỉ vì “nước Mỹ trước tiên” (America First), mà ngày càng giống “nước Mỹ một mình” (America Alone). (The New World Order: Donald Trump goes it alone, Gideon Rachman, Financial Times, May11, 2018).

Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng nhất tại Biển Đông và là tâm điểm trong chiến lược quốc phòng mới của Mỹ (NDS). Biên giới phía Bắc Việt Nam giáp Trung Quốc và toàn bộ bờ biển tiếp giáp Biển Đông. Nhưng quan trọng hơn cả vị trí địa lý là tinh thần dân tộc của người Việt Nam trong suốt lịch sử lâu dài chống ngoại xâm vì độc lập và chủ quyền đất nước. Nhưng chính vị trí địa chính trị đã làm Việt Nam mắc kẹt giữa các cường quốc, buộc phải đu dây để cân bằng quan hệ giữa các nước lớn. Nay Trung Quốc gây sức ép càng mạnh thì Việt Nam càng xích lại gần Mỹ để “tái cân bằng” chiến lược và “tìm đối trọng”.

Gần đây, quan hệ “đối tác toàn diện” Việt-Mỹ có xu hướng trở thành “đối tác chiến lược toàn diện” (như với Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ). Tuy xu hướng “thoát Trung” ngày càng mạnh trong lòng người Việt, nhưng Trung Quốc không muốn Việt Nam xích lại quá gần Mỹ, và Việt Nam cũng không muốn quá xa để căng thẳng với Trung Quốc (vì còn đang phụ thuộc quá nhiều vào họ). Có một nghịch lý là trong khi người Việt muốn “thoát Trung” thì về kinh tế và chính trị Việt Nam vẫn lệ thuộc vào Trung Quốc. Đã hai lần trong vòng một năm, Việt Nam và Repsol buộc phải ngừng khoan tại lô 136-03 (Cá Kiếm Nâu) và lô 07-03 (Cá Rồng Đỏ) ngay trong vùng EEZ của Việt Nam, trước sức ép của Trung Quốc. Hà Nội chịu thiệt hại kép vì mất nguồn thu lớn từ dầu khí và phải đền bù thiệt hại cho Repsol (đã đầu tư gần 200 triệu USD cho dự án Cá Rồng Đỏ), trong khi ngân sách Việt Nam đang thâm hụt. (South China Sea: Vietnam scraps new oil project, Bill Hayton, BBC, March 23, 2018).

Nhưng điều còn quan trọng hơn cả thiệt hại về kinh tế là Việt Nam đang mất dần chủ quyền tại Biển Đông nơi Trung Quốc muốn áp đặt “đường lưỡi bò” để biến thành cái ao riêng của họ. Sau khi bắt nạt được Việt Nam và Repsol chịu khuất phục hai lần tại bãi Tư Chính (Vanguard Bank) trong khi Mỹ và đồng minh khoanh tay bất lực, Trung Quốc tiếp tục gây sức ép (trực tiếp hoặc gián tiếp) với các dự án khác như Cá Voi Xanh của ExxonMobil (Mỹ) tại lô 118, hay OVL (Ấn Độ) tại lô 128, hay Lan Đỏ của Rosneft (Nga) tại lô 06-01. Tuy chưa rõ ExxonMobil (Mỹ), OVL (Ấn Độ), và Rosneft (Nga) liệu có chịu thua sức ép của Bắc Kinh hay không, nhưng đại diện ExxonMobil đã thông báo tại Đà Nẵng (7/11/2017) sẽ hoãn triển khai dự án này đến năm 2019. Hà Nội không chỉ “thất thủ” tại dự án Cá Rồng Đỏ mà còn “thất thu” tại dự án Cá Voi Xanh (trị giá 20 tỷ USD). Sự kiện Cá Rồng Đỏ cũng tồi tệ như sự kiện Scarboraugh shoal của Philippines khi Bắc Kinh cưỡng chiếm (4/2012) vì Mỹ không có “lằn ranh đỏ”.

Tuy Trump tuyên bố tầm nhìn “Indo-Pacifc tự do và rộng mở” với “Tứ giác Kim cương” (Mỹ-Nhật-Ấn-Úc), nhưng chưa đủ răn đe làm Trung Quốc chùn bước vì “Tứ cường” chỉ đối thoại chứ chưa thể chế hóa để biến thành hành động như một liên minh vì an ninh tập thể. Để đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông, Repsol (Tây Ban Nha) đáng lẽ phải liên kết với ExxonMobil (Mỹ) hay OVL (Ấn Độ) thành một tổ hợp (consortium) để cùng khai thác Cá Rồng Đỏ. Nếu Trung Quốc tách họ ra như một bó đũa lỏng lẻo để bẻ từng chiếc một, thì Trung Quốc sẽ thắng, nhưng nếu họ liên kết lại thành bó đũa thì chắc Trung Quốc không dễ bẻ gãy được. Theo Bill Hayton, chuyến thăm Đà Nẵng của USS Carl Vinson để răn đe Trung Quốc bắt nạt Việt Nam và các đối tác khác để gây áp lực lên các dự án dầu khí của họ (như “Cá Rồng đỏ” hay “Cá Voi Xanh”) không có tác dụng và thất bại. Tuy hải quân Trung Quốc (PLAN) không địch lại được sức mạnh hải quân Mỹ nhưng họ không sợ tàu sân bay Mỹ trong trò chơi “Cờ Vây” tại Biển Đông. Theo Carl Thayer, không có lý do gì cho thấy Mỹ sẽ giúp Việt Nam chống lại Trung Quốc đang tìm cách khẳng định chủ quyền của họ tại Biển Đông. Tuy quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt được cải thiện đáng kể nhưng thực tế hai nước vẫn chưa phải là đối tác chiến lược. (Viêt Nam ở thế ‘tiến thoái lưỡng nan’ sau Cá Rồng Đỏ? BBC, March 26, 2018).

Theo Carl Thayer, Trung Quốc và Việt Nam “đã đạt được nhận thức chung, không chính thức, về việc không can thiệp vào các hoạt động của bên kia nếu các hoạt động đó nằm trong Vùng Đặc quyền Kinh tế”. Tuy mỏ khí Cá Voi Xanh (lô 118) mà ExxonMobil và PVN hợp tác khai thác “không nằm trong đường đứt khúc chín đoạn” mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, nhưng Trung Quốc vẫn có thể lập luận rằng mỏ khí ngầm nằm chồng lấn bên dưới đường đứt khúc chín đoạn. Carl Thayer cho rằng “Trung Quốc gây áp lực đối với công ty Repsol của Tây Ban Nha là “chuyện tương đối nhỏ”, nhưng sẽ là “chuyện lớn” nếu Trung Quốc gây áp lực như vậy đối với một công ty lớn của Mỹ”. Tuy nhiên, Alexander Vuving cho biết: “Trung Quốc đã ráo riết vận động Việt Nam không triển khai dự án Cá Voi Xanh với ExxonMobil trong khoảng thời gian diễn ra Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Đà Nẵng (tháng 11/2017). Nhưng mỏ Cá Voi Xanh “chắc không bị dừng lại” vì nó nằm ngoài đường đứt khúc chín đoạn mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, nên nó “có nhiều cơ hội tồn tại hơn là Cá Rồng Đỏ”. (Sau Cá Rồng Đỏ Trung Quốc nhắm vào Cá Voi Xanh của Việt Nam? VOA, 05/04/2018).

Hơn bốn thập kỷ sau chiến tranh, quan hệ Việt-Mỹ vẫn còn phức tạp. Tâm trạng người Việt đối với Mỹ là “vừa yêu vừa ghét” (love-hate) tuy nay “yêu nhiều hơn ghét”. Trong khi đó tâm trạng người Việt đối với Trung Quốc là “ghét nhiều hơn yêu” (do nhiều lý do về lịch sử và văn hóa). Tâm lý chống Mỹ và “chống diễn biến hòa bình” tuy còn khá đậm, nhưng chủ yếu là tuyên truyền của chính quyền. Trên thực tế, ngày càng nhiều người Việt thích Mỹ (như cho con đi học Mỹ hay định cư tại Mỹ) kể cả các quan chức hay hô hào “chống diến biến hòa bình”. Ngoài ra, tâm trạng sợ Mỹ bỏ rơi vẫn còn ám ảnh nhiều người trong giới cầm quyền vì lo ngại Mỹ-Trung có thể “đi đêm” thỏa hiệp sau lưng như sợ Trump đánh đổi lợi ích tại Biển Đông lấy lợi ích tại Triều Tiên. Tuy một số chuyên gia cho rằng khả năng Việt Nam bị Mỹ bỏ rơi là rất thấp vì bối cảnh hiện nay khác trước, nhưng tâm trạng bất an và lo ngại vẫn là một rào cản tâm lý khi hai nước muốn nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược toàn diện”.

Người ta cho rằng Peter Navarro có vai trò quan trọng nhất đằng sau quyết định của Trump tăng thuế thép (25%) và nhôm (10%) chủ yếu nhắm vào Trung Quốc, bất chấp phản đối của nhiều người, trong đó có cố vấn chủ chốt của Trump về kinh tế là Gary Cohn (vừa từ chức). Navarro là cố vấn chủ chốt của Trump về thương mại, có lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc, và là tác giả cuốn sách “Chết do Trung Quốc” (Death by China, Peter Navarro, Prentice Hall, 2011). Gần đây, Peter Navarro được Trump sủng ái nâng cấp cao hơn vì hợp với Tổng thống. Navarro đã thuyết phục được Trump đánh thuế cao và áp dụng một số chế tài chống Trung Quốc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, ép các công ty Mỹ chuyển giao công nghệ cho các đối tác Trung Quốc, và ngăn chặn các công ty Trung Quốc mua lại các công ty của Mỹ.

Triển vọng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung càng tăng thì mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền Trump càng sâu sắc. Các cố vấn chủ chốt của Trump về thương mại và kinh tế đang chia thành hai phe tranh cãi kịch liệt, không ai chịu ai (như “chaos”). Phe thứ nhất gồm Steven Mnuchin (Bộ trưởng Tài chính) và Larry Kudlow (Giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia). Phe thứ hai gồm Robert Lighthizer (đại diện thương mại), Peter Navarro (Giám đốc Hội đồng Thương mại Quốc gia), và Wilbur Ross (Bộ trưởng Thương mại). Nhưng nguy hiểm hơn là Trump không thèm nghe các cố vấn nữa, mà tự ý mình quyết, đôi khi không cân nhắc kỹ. Nếu sai, Trump càng ngoan cố (doubles down) và không bao giờ nhận lỗi. (Inside the chaos of Donald Trumps trade wars, Demetri Sevastopulo & Sam Fleming, Financial Times, June 8, 2018).

Nhiều người lo ngại quyết định của Trump thay Ngoại trưởng Rex Tillerson bằng Mike Pompeo (cựu Giám đốc CIA) có thể ảnh hưởng tới chính sách của Mỹ tại Biển Đông. Đúng là Tillerson có kinh nghiệm đối phó với Trung Quốc (và Nga), có quan điểm cứng rắn tại Biển Đông, liên quan đến lợi ích dầu khí của ExxonMobil (như dự án Cá Voi Xanh). Nhưng vai trò Ngoại trưởng của Tillerson (và Bộ Ngoại giao) trong chính quyền Trump khá yếu (gần như bị vô hiệu hóa). Có nhiều lý do, nhưng chủ yếu vì Tillerson không hợp với Trump, nên vai trò yếu hơn so với Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis. Đó là một đặc điểm của chính quyền Trump mà một số chính khách như Thủ tướng Nhật Abe đã nắm bắt và vận dụng hiệu quả.

Tuy James Mattis (và Bộ Quốc phòng) có vai trò lớn hơn, nhưng vai trò của Ngoại trưởng mới Mike Pompeo (và Bộ Ngoại giao) chắc sẽ quan trọng hơn, vì Pompeo hợp với Trump hơn là Tillerson. Việc Trump cử Pompeo đi Bình Nhưỡng (trước khi được Quốc hội phê chuẩn làm Ngoại trưởng) là một chỉ dấu. Nay chính quyền Trump đã công bố chiến lược mới (NDS) và tầm nhìn Indo-Pacific, nên muốn triển khai chiến lược mới, Nhà Trắng chắc sẽ cần đến vai trò không thể thiếu của Bộ Ngoại giao. Một khi đàm phán trực tiếp Mỹ-Triều trở thành hiện thực, vai trò trung gian của Nam Hàn tăng lên, thì vai trò của Trung Quốc chắc sẽ giảm đi, vì vậy lập trường của Mỹ tại Biển Đông chắc sẽ cứng rắn hơn. Tuy bán đảo Triều Tiên vẫn còn nguy hiểm với nhiều ẩn số, nhưng Biển Đông chắc nguy hiểm hơn vì đây mới chính là tâm điểm của cuộc đối đầu Trung-Mỹ để giành vị trí bá quyền khu vực trong thế kỷ 21 này.


Phần 2: Trung Quốc đang ở đâu


Napoleon Bonaparte đã từng nói rất hay: “Trung Quốc là người khổng lồ đang ngủ. Hãy để nó ngủ yên, vì một khi tỉnh dậy, nó sẽ làm đảo lộn thế giới” (China is a sleeping giant. Let it sleep, as when it wakes up, it will shake the world). Nay Trung Quốc không những đã tỉnh dậy và đang làm đảo lộn thế giới như người khổng lồ, mà còn hung hãn như con quái vật Frankenstein (lời Richard Nixon). Mỹ và thế giới đang đau đầu đối phó với Frankenstein do chính họ đã góp phần tạo nên. Nói cách khác, Frankenstein vừa là sản phẩm nội địa (made in China) như chủ nghĩa dân tộc cực đoan đầy ẩn ức lịch sử, vừa là sản phẩm của Mỹ (constructive engagement) do ngộ nhận và ảo tưởng nên hiểu sai về hệ tư duy của người Trung Quốc.


“Hoàng đế Đỏ” lên ngôi

Tại Đại hội Đảng lần thứ 19 “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới” đã được xác quyết và ghi vào Điều lệ Đảng. Đó là một cột mốc lớn trong lịch sử để Trung Quốc bước vào “kỷ nguyên mới”, nhằm thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” bằng chiến lược “Một vành đai, Một con đường” với những đại dự án có quy mô còn lớn hơn cả Kế hoạch Marshall của Mỹ trước đây. Trong bối cảnh nước Mỹ lâm vào khủng hoảng chính trị bởi hiện tượng Trumpism (ít nhất trong ba năm tới), Trung Quốc chắc sẽ nắm bắt cơ hội trời cho này để quyết tâm vượt Mỹ, tranh giành vai trò lãnh đạo thế giới.

Theo Franscis Fukuyama, tuy chưa thể khẳng định được “Hoàng đế Đỏ” Trung Quốc rồi sẽ tồi tệ như thế nào, vị hoàng đế đó đã dập tắt mọi hy vọng của nhiều người Trung Quốc về một xã hội cởi mở hơn, minh bạch và tự do hơn. Tập Cận Bình đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Đảng đối với đất nước, đàn áp mọi biểu hiện chống đối, và thiết chế một hệ thống kiểm soát xã hội bằng cách sử dụng “dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo” (big data and artificial intelligence) để hàng ngày theo dõi thái độ của công dân. Như vậy, Tập Cận Bình sẽ cho thế giới thấy các hình thái khó tưởng tượng của một nhà nước độc tài trong thế kỷ 21 sẽ như thế nào. (China’s “bad emperor” returns, Francis Fukuyama, Washington Post, March 6, 2018).

Người Trung Quốc coi trọng lịch sử, không phải chỉ vì tự hào mà còn muốn lợi dụng lịch sử làm bệ đỡ để “trở về tương lai” (back to the future). Tập Cận Bình cũng muốn làm “Trung Quốc vĩ đại trở lại” (chẳng khác gì Trump). Nhưng điều trớ trêu là những gì mà Trump đang làm để giúp nước Mỹ vĩ đại trở lại (America great again) thì hóa ra chỉ làm lợi cho Trung Quốc vĩ đại trở lại (China great again). Chỉ mấy tháng sau Đại hội 19, Quốc hội Trung Quốc đã quyết định sửa đổi Hiến pháp (11/3/2018), bỏ điều khoản hạn chế Chủ tịch nước không được làm quá hai nhiệm kỳ, như vậy đi ngược lại với xu hướng dân chủ hóa trên thế giới.

Tập Cận Bình nói Trung Quốc đã “đứng dậy, làm giàu, và trở nên mạnh mẽ”, nhưng cái giá phải trả cũng rất lớn vì tham nhũng tràn lan và đấu tranh quyền lực quyết liệt. Số quan chức bị kỷ luật vì tham nhũng đã tăng từ 150,000 người (năm 2012) lên hơn 400,000 (năm 2016). Nếu Mao đã bắt đầu cuộc cách mạng lần thứ nhất (từ thập niên 1940) thì Đặng đã chỉ đạo cuộc cách mạng lần thứ hai (từ thập niên 1970). Nay Tập đang tiến hành cuộc cách mạng lần thứ ba. “Nếu một trong các dấu ấn của nhà nước thời Mao là Đảng xâm nhập xã hội thì dấu ấn của nhà nước thời Đặng là Đảng rút lui” (David Shambaugh). Nay dưới thời Tập, con lắc chính trị đang quay ngược lại với vai trò lớn hơn của Đảng. (The Third Revolution: Xi Jinping and the New Chinese State”, Elizabeth Economy, Oxford University Press, 2018).

Theo tác giả, Tập đã đưa Trung Quốc xa rời cam kết của Đặng đi theo một chính sách đối ngoại khiêm tốn (a low-profile foreign policy). Trong nước Tập bóp nghẹt tự do dân chủ, nhưng trên trường quốc tế ông lại muốn làm lãnh tụ toàn cầu hóa (globalizer in chief). Tại cấp cao APEC (11/2017), Tập tuyên bố “Mở cửa sẽ đem lại tiến bộ và ai đóng cửa tất sẽ tụt hậu”. Những lời hoa mỹ đó chỉ để lừa gạt (misleading). Dưới khẩu hiệu “chủ quyền mạng” (cyber sovereignty) Tập nói các nước phải được lựa chọn con đường riêng để phát triển mạng. Trong khi luôn miệng nói về chủ quyền nhưng chính sách đối ngoại hung hãn của Bắc Kinh lại trắng trợn vi phạm chủ quyền nước khác. Để áp đặt luật chơi mới trên thế giới, Tập triển khai chiến lược “Một vành đai, Một con đường”, đến nay đã kiểm soát 76 hải cảng tại 34 nước.

Điều đó khẳng định xu hướng độc tài theo “chủ nghĩa tân độc đoán” (Neo-authoritarianism) mà Vương Hỗ Ninh đề xướng, nay tái sinh thành “chủ nghĩa tân bảo thủ” (Neo-conservatism), đã trở thành tư tưởng chủ lưu của Trung Quốc. Hiện tượng “cách mạng thụt lùi” (revolutionary regression) đã từng xảy ra tại Iran (năm 1978), nay đang diễn ra tại Trung Quốc. Hai sự kiện đó tuy khác nhau về hình thức (tôn giáo) nhưng giống nhau về bản chất (cực đoan). Sau khi Tập Cận Bình thay đổi luật chơi (quốc gia) do Đặng Tiểu Bình đặt ra, để trở thành nhà độc tài (như “Hoàng đế Trung Hoa”), nay chắc Tập muốn thay đổi luật chơi (quốc tế).

Trong trò chơi quyền lực mới (new “game of thrones”) giữa con đại bàng Mỹ (đang suy yếu) và con rồng Trung Quốc (đang trỗi dậy) liệu họ có bị sa vào bẫy Thucydides (như Graham Allison suy đoán)? Chiến tranh không nhất thiết xảy ra nếu Trung Quốc “không đánh mà thắng”. Những gì diễn ra tại Biển Đông trong mấy năm qua cho thấy Trung Quốc hầu như đã thắng hiệp đầu mà không cần đánh, vì họ vận dụng “Tam chủng chiến pháp” (three warfare doctrine) như một kiểu “chiến tranh không thông thường” (unconventional warfare). Đó là cuộc đấu trí và đấu lực trong “vùng xám” (grey zones) mà Trung Quốc có lợi thế, bằng cách “thay đổi thực địa” (changing facts on the ground) như “tầm ăn dâu”, để biến thành “chuyện đã rồi” (fait accompli) mà không gây ra xung đột trực tiếp với Mỹ. Tóm lại, Trung Quốc đã ứng dụng linh hoạt Binh pháp Tôn Tử (không đánh mà thắng) như cách đánh “cờ vây” (“Wei Qi” game).

Nếu muốn lý giải “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”, có lẽ phải hiểu tư duy chiến lược của Vương Hỗ Ninh (Wang Huning). Vương là tác giả của ba chủ thuyết gần đây của Trung Quốc: “thuyết ba đại diện” (thời Giang Trạch Dân), “quan điểm phát triển khoa học” (thời Hồ Cẩm Đào), “giấc mộng Trung Hoa” và “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” (thời Tập Cận Bình). Nếu muốn lý giải những diễn biến trong cải cách kinh tế của Trung Quốc gần đây (và sắp tới), phải hiểu tư duy kinh tế của Lưu Hạc (Liu He). Việc đưa Vương Hỗ Nình vào thường vụ Bộ Chính trị (xếp hạng thứ năm) và Lưu Hạc vào Bộ Chính trị (Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế) càng khẳng định vai trò then chốt của hai bộ óc chiến lược đang cố vấn chính sách cho Tập Cận Bình. Nay Vương Hỗ Ninh và Lưu Hạc còn được hậu thuẫn bởi cánh tay phải của Tập Cận Bình là Vương Kỳ Sơn, với vai trò mới là Phó Chủ tịch nước (trên thực tế) là người thứ hai để kế nhiệm Tập Cận Bình.

Việc sắp xếp vị trí của bộ ba Vương Kỳ Sơn, Dương Khiết Trì và Vương Nghị chứng tỏ sự cam kết của Tập Cận Bình đối với vai trò của ngoại giao “thống nhất và tập trung” (unified and centralized) trong tay Ban Chấp hành TW. Việc bổ nhiệm các nhà ngoại giao chuyên nghiệp có kinh nghiệm phù hợp với tầm nhìn của Tập muốn củng cố vai trò quyết sách đối ngoại tại cấp cao nhất của Đảng. Với sự tái xuất chính thức của Vương Kỳ Sơn, được Tập tin cậy nhất với vai trò “chữa cháy” (fixer) nay làm Phó Chủ tịch nước, để giám sát công tác đối ngoại, tập trung vào quan hệ Trung-Mỹ, bộ ba đó là một minh chứng về quyền kiểm soát cá nhân của Tập Cận Bình đối với Chính phủ còn lớn hơn cả nhiệm kỳ trước. (Here’s Who is Really Guiding China’s Foreign Policy, Zoe Leung, National Interest, May 6, 2018).

Tuy tư duy về phát triển của Vương Hỗ Ninh đã phát huy tác dụng trong giai đoạn phát triển “hậu Thiên An Môn” nhưng không có gì đảm bảo tư tưởng của Vương Hỗ Ninh và chính sách của Lưu Hạc sẽ thành công trong giai đoạn tới (còn nhiều ẩn số). Những người theo “chủ nghĩa Tân Độc đoán” lập luận rằng ổn định chính trị sẽ cung cấp cấu trúc cho phát triển kinh tế, rằng “không có trật tự xã hội thì không thể có tự do và dân chủ”. Theo Vương Hỗ Ninh, “sự thống nhất của ban lãnh đạo là điều kiện tiên quyết cho sự tồn vong của đất nước”, còn dân chủ và tự do cá nhân “sẽ đến muộn hơn khi hội đủ các điều kiện thích hợp”.

Theo một số học giả Trung Quốc, người Trung Hoa có năm hằng số đạo đức (Five Constant Virtues): đó là nhân (benevolence), chính (righteousness), nghĩa (propriety), trí (wisdom), tín (fidelity)… Trung Quốc có thể quyết xây dựng một trật tự dựa trên quan niệm cổ về “nghĩa” (propriety). Đặc tính của trật tự này là coi “nghĩa” như phương tiện chính để điều chỉnh quan hệ, dựa vào cấu trúc các vòng tròn đồng tâm (concentric zone structure)… Có thể hình dung trong trật tự của Trung Quốc được điều chỉnh bởi “nghĩa”, Trung Quốc sẽ phân chia các nước thành viên theo khoảng cách. Tuy nhiên, các nước có quan hệ tốt hơn với Trung Quốc có thể không nhất thiết thuộc vòng tròn văn hóa Khổng giáo… Tóm lại, trật tự của Trung Quốc được điều chỉnh bởi “nghĩa” không phải là trật tự dựa trên quyền lực… Đó là một trật tự mới theo quan hệ song phương, dựa trên truyền thống Trung Quốc và được thiết chế một cách hiện đại. Điều quan trọng là nó tương thích với hệ thống quốc tế hiện nay. (What Might a Chinese World Order Look Like? Xue Li & Cheng Zhangxi, Diplomat, April 13, 2018).

Nhưng theo Kevin Rudd, có bảy vòng tròn đồng tâm (concentric circles) phản ánh lợi ích chiến lược của Trung Quốc: (1) Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục cầm quyền. (2) Đoàn kết dân tộc; (3) Kinh tế Trung Quốc; (4) Khu vực ảnh hưởng; (5) Khu vực hải đảo; (6) Thế giới đang phát triển; (7) Tương lai trật tự thế giới dựa trên pháp luật. Trung Quốc rất tự hào về mô hình “tư bản độc quyền” (authoritarian capitalist) để thay thế mô hình Mỹ… Trung Quốc muốn thấy trật tự thế giới tương lai phù hợp với lợi ích quốc gia và hệ thống giá trị của mình… Đối với trật tự an ninh thế giới, chúng ta đang ở trong một tình thế hoàn toàn bất định vì những lý do “ngày càng lệ thuộc vào hình thù chính trị nội bộ do Mỹ và Trung Quốc quyết định” (increasingly shaped by the future contours of both American and Chinese domestic politics). Trong 40 năm qua, hầu hết cộng đồng Âu Châu đã hiểu ngầm là Trung Quốc sẽ dần ngả theo mô hình tư bản tự do. Khi hiểu như vậy, nhiều học giả đã không chú ý tới cuộc tranh luận trong nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào cuối thập niên 1990 là sẽ không có sự thay đổi thể chế nào cả, và Trung Quốc sẽ tiếp tục là một quốc gia độc đảng. (How Xi Jinping Views the World: The Core Interests That Shape China's Behavior, Kevin Rudd, Foreign Affairs, May 10, 2018).


Nghịch lý mô hình Trung Quốc

Giai đoạn phát triển kinh tế “Hậu Thiên An Môn” với mô hình phát triển mà David Shambaugh gọi là authoritarian resilience được người Mỹ đánh giá cao và ủng hộ, nay đã qua rồi. Những yếu tố thuận lợi ban đầu đã hết, nay bài toán phát triển kinh tế Trung Quốc khó khăn hơn nhiều. Tuy Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và giàu có về vật chất, nhưng tinh thần còn lạc hậu. Dòng người và dòng tiền từ Trung Quốc tiếp tục chảy ra ngoài (tới Mỹ và phương Tây). Đó là hệ quả của nghịch lý phát triển không đồng bộ (như “gót chân A-sin”). Tuy khó dự báo chính xác tương lai của Trung Quốc, nhưng David Shambaugh cho rằng Tập Cận Bình càng cố gắng làm khác Gorbachew thì kết cục Trung Quốc càng giống Liên Xô. “Màn chót của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và những biện pháp cứng rắn của Tập Cận Bình chỉ đưa đất nước đến gần hơn điểm đổ vỡ” (The endgame of communist rule in China has begun, and Xi Jinping's ruthless measures are only bringing the country closer to a breaking point”. (The Coming Chinese Crackup, David Shambaugh, Wall Street Journal, March 6, 2015).

Còn Minxin Pei cho là sai lầm nếu tưởng rằng khi người Trung Quốc trở nên giàu có về kinh tế và có thế lực về chính trị thì họ sẽ chọn chủ nghiã tư bản tự do mà bỏ “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism)… Sự cấu kết của chủ nghĩa tư bản thân hữu tại Trung Quốc làm cho quá trình đó diễn ra vừa khó khăn vừa rối loạn. Kịch bản thay đổi “từ trên xuống” rất khó xảy ra dưới chế độ tư bản thân hữu. Ngay cả khi cách mạng lật đổ trật tự cũ cũng chưa chắc dẫn đến bình minh của một nền dân chủ tự do. Các di sản của chủ nghĩa tư bản thân hữu (tình trạng bất bình đẳng về tài sản, chính quyền địa phương mafia, sự cấu kết của các đại gia có đặc quyền) sẽ tạo điều kiện cho những kẻ chiếm đoạt được khối tài sản lớn sử dụng quyền lực chính trị để trấn áp các nhân tố dân chủ mới làm cho họ khó có khả năng tồn tại…

Động lực của một chế độ thối nát (regime decay) sẽ hủy hoại thanh danh của thể chế Đảng-Nhà nước Trung Quốc qua ba cách. Thứ nhất, khi các nhóm lợi ích hình thành và xâm nhập mọi ngõ ngách của thể chế Đảng-Nhà nước, chúng sẽ thao túng quyền lực chính trị, biến quyền lực của chế độ thành công cụ quyền lực riêng. Thay vì phục vụ lợi ích của chế độ, chúng chỉ mưu cầu lợi ích riêng cho mình. Thứ hai, mạng lưới tham nhũng mặc nhiên tranh giành với nhau vì quyền lực và lợi ích, vì vậy sẽ làm suy yếu sự thống nhất của nội bộ Đảng, và gia tăng thanh trừng sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn cá nhân của lãnh đạo cấp cao. Thứ ba, khi tham nhũng cấu kết và lan rộng trong bộ máy an ninh của Đảng-Nhà nước, chắc chắn nó sẽ hủy hoại sự trung thành và hiệu quả của các thể chế trụ cột mà Đảng-Nhà nước dựa vào để tồn tại. (China’s Crony Capitalism, Minxin Pei, Harvard University Press, 2016).

Sự trỗi dậy và cấu kết của chủ chũ nghĩa tư bản thân hữu trong nền kinh tế chính trị của Trung Quốc, xét cho cùng, là kết quả tất yếu của mô hình hiện đại hóa kinh tế chuyên chế của Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping’s authoritarian model of economic modernization). Thế lực cầm quyền đang nắm quyền lực không bị hạn chế sẽ bị cám dỗ dùng quyền lực để chiếm đoạt tài sản do sự phát triển kinh tế đem lại. Sự cấu kết của tham nhũng là một đặc thù nổi bật, và sự thối nát của chế độ cũng lan đến các cấp cao nhất trong hệ thống quân đội. Vì vậy mà Tập Cận Bình đã từng cảnh báo nguy cơ vong Đảng: “Nếu chúng ta không quản trị được Đảng hiệu quả hoặc chặt chẽ… sớm hay muộn Đảng sẽ mất chỗ đứng để quản trị đất nước và sẽ bị lịch sử gạt ra rìa”. (If we fail to govern our party effectively or strictly … sooner or later it will lose its standing for ruling the country and will be cast aside by history (June 28, 2013).

Sự phát triển thần kỳ của Trung Quốc vẫn ẩn chứa nhiều nghịch lý. Tập Cận Bình không chỉ muốn làm khác Gorbachew mà còn làm khác Đặng Tiểu Bình (cả về đối nội và đối ngoại). Trong khi Đặng muốn chấm dứt nền độc tài kiểu Mao, thì Tập quay lại với nền độc tài kiểu Mao để “tái tạo Trung Quốc” (Rejuvenation of the Chinese Nation). Không phải vì Tập yêu Maoism (đã đầy đọa bố con Tập thời Cách mạng Văn hóa), mà Tập Cận Bình (cũng như Bạc Hy Lai) đều sử dụng Maoism như một công cụ quyền lực hữu hiệu ở Trung Quốc. Về kinh tế, Tập muốn dựa vào doanh nghiệp nhà nước chứ không dựa vào tư nhân. Về quốc tế, Tập muốn “Tàu hóa” cả thế giới (cinicization of the world) và thay đổi trật tự thế giới theo ý mình, lấy Trung Quốc làm tâm điểm (để thay thế Mỹ). Nếu những năm đầu thập niên 1990, phương Tây lo ngại Nhật “mua cả thế giới” thì nay đến lượt Trung Quốc cũng đang “mua cả thế giới”.

Tại Đông Nam Á, Trung Quốc đã xây dựng được các đảo nhân tạo tại Biển Đông, và cuộc chơi tại Biển Đông coi như đã kết thúc. Theo David Shambaugh, Tập Cận Bình muốn đẩy Đài Loan vào thế phải đầu hàng, nhưng Bắc Kinh chưa đánh giá đúng mức vấn đề Đài Loan. Cố vấn an ninh quốc gia mới John Bolton là một người thân Đài Loan, sẽ thách thức Trung Quốc và có khả năng bước qua lằn ranh đỏ mà Bắc Kinh vạch ra (như dọa sẽ hành động nếu chiến hạm Mỹ thăm Đài Loan hoặc hợp tác quân sự với Đài Loan). Bolton sẽ cho Tập Cận Bình thấy rằng ông ta đã lầm to, và trong tương lai vấn đề Đài loan có thể bùng nổ. Tập Cận Bình muốn đưa Trung Quốc quay lại chế độ độc tài thời Mao, trong khi thúc đẩy một chính sách đối ngoại bành trướng, với “Con đường tơ lụa mới”. Tuy David Shambaugh không dự báo Trung Quốc sẽ sụp đổ (collapse) nhưng sẽ suy tàn (crack up). “Chế độ Trung Quốc không sụp đổ, nhưng không mạnh như người ta vẫn tưởng… Tôi đoán Trung Quốc sẽ suy tàn trong mười hoặc hai mươi năm nữa… Tôi rất ấn tượng về nghịch lý giữa sự tự tin của Tập Cận Bình trong hoạt động đối ngoại và sự hoang tưởng của ông ta trong chính trị đối nội”. (David Shambaugh: Xi Jinping ramène la Chine au système patriarcal de Mao, Sébastien Falletti, Le Figaro, April 23, 2018).

Khi Mỹ khủng hoảng chính trị và Trump tỏ ra không tha thiết đến vai trò toàn cầu của Mỹ, Tập Cận Bình nhận thấy cánh cửa cơ hội mở ra và quyết định theo đuổi một đường lối đối ngoại cực đoan, khác với Đặng Tiểu Bình từng khuyên phải “dấu mình chờ thời” (hide our capabilities and bide our time). Khi Trump rút khỏi TPP, ông ta đã vô tình tặng Trung Quốc “một món quà chiến lược vô giá”. Người Trung Quốc vội vã (prematurely) cho rằng Mỹ đã suy yếu và Trung Quốc có thể nhân cơ hội này giành thế độc tôn ở Biển Đông (South China Sea), biển Hoa Đông (East China Sea) và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc “chiếm vị trí trung tâm thế giới” (take center stage in the world) và “Châu Á của người Châu Á” (Asia for Asians), với hàm ý muốn loại Mỹ ra khỏi trật tự khu vực này.

Mấy thập kỷ qua, phương Tây đã ảo tưởng tin rằng Trung Quốc giàu có thì sẽ dân chủ hóa, nên đã hỗ trợ và giang tay chào đón Trung Quốc hòa nhập vào cộng đồng thế giới (vào WTO năm 2001). Người Mỹ, người Nhật và Tây Âu phải chịu trách nhiệm về sự trỗi dậy bất ổn và bất trị của Trung Quốc hiện nay. Tuy một số nước vẫn chạy theo Trung Quốc hoặc có chính sách hai mặt vì lợi ích kinh tế, nhưng hầu hết các nước phương Tây đã vỡ mộng và tỉnh ngộ về bản chất Trung Quốc. Gần đây,

© 2016 About Us | Terms & Conditions