Những sự thật cần phải biết (phần 19) - Sự thật về Võ Nguyên Giáp

QLB

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Do sinh ra và lớn lên trong môi trường xã hội chủ nghĩa nên từ nhỏ tôi cũng bị nhồi sọ và tuyên truyền những điều dối trá. Khi tôi tìm tài liệu và biết về sự thật thì tôi hiểu ra rằng mình đã bị nhồi sọ bởi một chương trình nói láo có hệ thống. Tuy nhiên lúc đó tôi vẫn còn thần tượng một phần nào đó ông Võ Nguyên Giáp. Tôi coi trọng ông Giáp hơn rất nhiều Hồ Chí Minh. Nhưng... cách đây 6 năm thì sau khi đã tìm hiểu đầy đủ tài liệu tôi chợt nhận ra ông Giáp cũng không khác gì các lãnh tụ cộng sản khác. Vì vậy, hôm nay tôi sẽ phải viết về ông Giáp như một nhận thức đúng đắn nhất về ông ta đó là một vị tướng: Không có tài và coi thường sinh mạng của nhân dân.

I. Đôi điều về con người Võ Nguyên Giáp:

Đầu tiên xin mời bạn đọc xem qua tài liệu về tiểu sử của ông Giáp trên website của Quảng Bình (1):

Tóm tắt tiểu sử-Đại tướng Võ Nguyên Giáp: 

1. Họ và tên (bí danh): Võ Nguyên Giáp (Văn) 
2. Năm sinh: Ngày 25/8/1911.
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Đại tướng, Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
4. Quê quán: Làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
5. Trú quán: Phố Hoàng Diệu, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
6. Thành phần: Nhà nho yêu nước.
7. Năm tham gia cách mạng: Năm 1925.
8. Năm nhập ngũ: Năm 1944.
9. Ngày vào Đảng - Chính thức: Năm 1940.
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Đại tướng năm 1948. 
11. Quá trình tham gia cách mạng

Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1925 khi mới 14 tuổi. Năm 1929, đồng chí tham gia cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đảng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam vì tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp. Không có chứng cớ, cuối cùng, chúng buộc tha đồng chí. Đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng trên mặt trận văn hóa, viết bài cho những tờ báo công khai như: Tin tức, Nhân dân, Tiếng nói của chúng ta, Lao động, làm biên tập viên cho các tờ báo của Đảng, dạy sử, địa cho Trường tư thục Thăng Long. 

Năm 1934, đồng chí kết duyên với Bà Nguyễn Thị Minh Thái, một Đảng viên Cộng sản, cộng sự đắc lực của đồng chí. Trong những năm tháng hoạt động bí mật, hai vợ chồng đồng chí sống ở số nhà 46 phố Nam Ngư, Hà Nội. Sau này, Bà Nguyễn Thị Minh Thái bị thực dân Pháp bắt, giết chết bà trong ngục nhà tù Hỏa Lò. Từ năm 1936 đến 1939, đồng chí tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, biên tập viên các tờ báo của Đảng, Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. 

Năm 1939, đồng chí cùng đồng chí Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Được sự dìu dắt của Người, năm 1940, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 5 năm 1941, đồng chí trở về Cao Bằng, tham gia gây cơ sở cách mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, tham gia chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng. Năm 1942, đồng chí phụ trách Ban Xung phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc giữa miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. 

Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Ngày 22/12/1944, tại một khu rừng ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ủy nhiệm cho đồng chí đứng ra tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Đồng chí được giao nhiệm vụ trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. 

Tháng 3/1945, đồng chí đưa Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu quốc quân của đồng chí Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống nhất tổ chức thành Việt Nam giải phóng quân. 

Ngày 4/8/1945, đồng chí là Ủy viên Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, làm Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang thống nhất mang tên Việt Nam Giải phóng quân, tham gia Ủy ban Chỉ huy Lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc. 

Đồng chí được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II, cử vào Ban Chấp hành Trung ương và là Ủy viên Thường vụ ban Chấp hành Trung ương, tham gia Ủy Ban Khởi nghĩa toàn quốc, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Lâm thời.

Tháng 1/1946, đồng chí được cử là Chủ tịch quân sự, Ủy viên hội đồng trong Chính phủ Liên hiệp, Phó trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị ở Đà Lạt. Năm 1946, đồng chí kết hôn với Bà Đặng Thị Bích Hà (Con gái cố Giáo sư Đặng Thai Mai).

Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL, phong đồng chí làm Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 27/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương ra Nghị quyết: “Lập chế độ chính trị ủy viên, đại diện chỉ huy kiêm Chính ủy. Tháng 6/1950, có Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng, đồng chí là Tổng tư lệnh, Tổng chính ủy, Bí thư Quân ủy Trung ương. Đồng chí đảm nhiệm các cương vị trên từ năm 1945 đến năm 1975. 

Về Đảng, đồng chí liên tục được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa II (năm 1951), đến khóa VI (Ngày 20/12/ 1986), làm Ủy viên Bộ Chính trị các khóa từ khóa II đến khóa VI. Đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khóa I (năm 1946) đến khóa VI (Năm 1986). Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí trực tiếp chỉ huy các chiến dịch lớn: Biên Giới năm 1950, Điện Biên Phủ năm 1954.

Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí cùng Bộ Chính Trị chỉ đạo các chiến dịch lớn ở miền Nam Việt Nam, trong đó có Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam.

Năm 1980, đồng chí thôi giữ chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rút khỏi Bộ Chính trị năm 1982. Cuối năm 1983, đồng chí được cử làm Chủ tịch Ủy ban sinh đẻ có kế hoạch. Cuối năm 1993, đồng chí được suy tôn làm Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam….

12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:

- Huân chương Sao vàng.
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- Hai Huân chương Quân công hạng nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

Đồng chí được Nhà nước Lào tặng Huân chương vàng Quốc gia Lào, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăng Co. Đồng chí được Đảng, Chính phủ các nước tặng nhiều Huân chương cao quý.”

Đọc qua tiểu sử của ông Giáp chúng ta thấy ông ta có một quá trình tham gia cộng sản khá lâu dài cho đến ngày hôm nay. Và chính ông Giáp có vai trò rất quan trọng trong việc gây ra hàng triệu cái chết trong chiến tranh “sinh bắc tử nam” mà chúng ta đã biết. Như vậy cũng giống như các lãnh tụ cộng sản khác, ông Giáp có tội gây ra chiến tranh tàn khốc theo lệnh của Trung Cộng. Tuy nhiên ông ta cũng đã được thêu dệt bằng những huyền thoại như tướng tài, tướng thương quân. Nhưng sự thật lại không phải như vậy. Mời bạn đọc theo dõi những tài liệu dưới đây để thấy điều đó.

Trước khi đi vào chi tiết cụ thể về những “thực tài” của ông Giáp, chúng ta hãy xem lý lịch bất minh của ông Giáp mà ngày nay đã có tài liệu sáng tỏ ông ta từng là con nuôi của mật thám Pháp. Có ít nhất 3 tài liệu trong số vô vàn tài liệu mà tôi xin gửi đến bạn đọc ở đây để chứng minh cho sự bất minh cho lý lịch của ông Tướng.

Thứ nhất, theo ông Trần Quỳnh - một chức sắc lãnh đạo có thẩm quyền cộng sản, có uy tín cá nhân - viết lại về việc Trường Chinh đến thăm ông Đặng Thái Mai như sau: “Thời kỳ trước Cách mạng tháng tám, một lần Trường Chinh đến nhà Đặng Thái Mai có việc. Thấy Mai đang cầm đọc một lá thư, Đăng Thái Mai bị bất ngờ, Trường Chinh lướt qua bức thư mới kịp thấy tiêu đề của thư là chánh mật thám, chữ ký là Mạc-Ti và câu đầu: “Các con thân ái Mai và Giáp” (Mes chers enfants Mai et Giap). Mai ngước lên nhìn thấy Trường Chinh vội vàng nhét thư vào túi áo... Giáp là con người xảo trá- khi tôi từ miền Nam, khi nói chuyện riêng, Giáp hay nói xấu Bác, nhưng trước mặt Bác, Giáp hay nịnh Bác”. (Hồi ký Trần Quỳnh: Những kỷ niệm về Lê Duẩn, 30-07-1986).

Thứ hai, ông Hoàng Văn Chí trong cuốn “Từ thực dân đến cộng sản” viết đầy đủ và rõ ràng hơn như sau: “Mai (Đặng Thái Mai) và Giáp đều là “con nuôi” của Louis Marty, giám đốc phòng chính trị của Phủ Toàn Quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt khác bị tù đầy hoặc cầm cố thì hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến ngày Giáp được Pháp đưa sang Tàu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp “chiến tranh du kích” do Mỹ mở ở Tỉnh Tây, nhưng không bao giờ lên Diên An. Giáp và Mai coi nhau như “anh em kết nghĩa”, nhưng sau khi vợ Giáp chết trong tù, Giáp lấy cô Hà, con gái Mai kém Giáp gần 20 tuổi mà trước kia Giáp vẫn bế trong tay hồi còn là chú cháu”.

Thứ ba, cuốn sách của Cecil B. Currey, nhan đề:Victory at any cost: The Genius Of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyên Giáp” ghi lại đầy đủ chi tiết và trung thực hơn cả. Xin được tóm tắt như sau: “Vào năm 1930, mật thám Pháp đã bắt một số người tình nghi hoạt động chống Pháp cùng với một số người khác trong đó có anh của Võ Nguyên Giáp là Võ Thuần Nho, Đặng Thái Mai, một giáo sư văn chương tại Quốc Học và một nữ sinh 15 tuổi tên Nguyễn Thị Quang Thái, nữ sinh Đồng Khánh. Người mà sau này là vợ của Võ Nguyên Giáp... Đặng Thái Mai bị kết án 4 năm tù, Nguyễn Thị Quang Thái, hai năm tù. Riêng Võ Nguyên Giáp vì chứng cớ hoạt động không rõ ràng, nhưng quan tòa cũng xin xử phạt 2 năm tù khổ sai... Năm 1933, Đặng Thái Mai ra Hà Nội nhận dạy học ở trường Thăng Long, VNG ra Bắc theo... Với một án tù chính trị như thế, con đường học của Võ Nguyên Giáp là không thể có được nếu không có sự giúp đỡ của Louis Marty. Trong việc tiếp xúc giữa Marty và VNG, Marty đã khuyên Giáp quay trở lại việc học và chuẩn bị cho việc thi tú tài 1 và 2. Chắc hẳn Marty đã ngầm giúp đỡ để Giáp có thể vào học ở trường Albert Sarraut”.

II. Một vị tướng không có thực tài:

1. Ông tướng chưa học quân sự:

Ông Giáp được ca tụng là một chỉ huy quân sự tài ba, lỗi lạc, thậm chí được cộng sản so sánh với đức thánh Trần Hưng Đạo. Nhưng có một điều là ông ta chưa học qua một khóa huấn luyện quân sự chuyên nghiệp nào. Để chứng minh điều này có 2 tài liệu sau đây:

Võ Nguyên Giáp & Hồ Chí Minh
Thứ nhất, cũng trên trang web của tỉnh Quảng Bình có đoạn viết về Võ Nguyên Giáp như sau: “Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng. Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.” (2)

Đọc qua đoạn trích tiểu sử ông Giáp chúng ta không hề thấy ngày tháng nào ông Giáp học quân sự nhưng lại thành lập quân đội và “huấn luyện quân sự”. Ông Giáp sẽ dạy gì cho lính nếu ông ta mù tịt về quân sự khi chưa có giờ phút nào học nó? Có lẽ cái này ông Giáp là hiểu nhất.

Thứ hai, trên trang Infonet của Bộ Thông tin Truyền thông của cộng sản có viết bài về cuốn sách “Chiến thắng bằng mọi giá” của 1 tác giả Mỹ như sau: “Dưới ngòi bút của sử gia người Mỹ, Võ Nguyên Giáp được xem là gương mặt quân sự đặc biệt nhất của thế kỷ XX. Theo ông, tướng Giáp dù không qua trường lớp đào tạo về quân sự, song những chiến công của Võ Nguyên Giáp và quân đội Việt Nam quả là huy hoàng, không chỉ đơn thuần về mặt quân sự mà còn là những trận toàn thắng về chính trị.” (3)

Bỏ qua sự ca tụng mà truyền thông lề đảng vẫn làm khi viết về ông Giáp và các nhà lãnh đạo cộng sản mà sự thật chúng ta sẽ thấy ở phần sau của bài viết thì có một thực tế là ông Giáp chưa bao giờ qua trường lớp quân sự nào. Thật là một chuyện không thể có nếu không học qua quân sự lại biết về quân sự và tài tình như cộng sản thêu dệt. Cộng sản có thể lý luận ông Giáp cũng có thể như Khổng Minh trong Tam Quốc. Nhưng chúng ta phải nên nhớ Khổng Minh là một thiên tài đã đọc hết các sách binh thư, ngoài ra còn được bố vợ và vợ hết lòng chỉ giáo. Bởi vậy một kẻ không học qua sách vở, trường lớp quân sự không thể là kẻ thiên tài như cộng sản ca tụng. Và bằng chứng bằng sự thật đã khẳng định điều đó là đúng.

2. Tài năng vay mượn: 

Tướng Giáp luôn được ca ngợi ông ta chỉ huy nhiều trận thắng vang dội nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Hãy tìm hiểu những tài liệu sự thật để thấy ông Giáp nằm ở đâu trong những “thắng lợi” của quân đội cộng sản.

Trong số 8 tội mà liên minh Đỗ Mười - Lê Đức Anh đã tố ông Giáp thì có đến 4 tội trong quân sự đó là: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch. Ông Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp - Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ. Tết Mậu Thân 1968 ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn. Ông Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B (chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến trường miền Nam trước 1975).” Và cơ bản những điều Đỗ Mười, Lê Đức Anh nói đều đúng không sai. 

a. Trận chiến Điện Biên Phủ: 

Thứ nhất, để minh chứng cho việc Vi Quốc Thanh - một tướng Trung Cộng tham gia chiến tranh với Pháp và đặc biệt tại Điện Biên Phủ đã chỉ huy quân đội cộng sản, tôi xin gửi tới bạn đọc bằng chứng được chính quyền cộng sản công bố. Ví dụ như trong bài viết về Vi Quốc Thanh trên website của sở Khoa học và công nghệ tỉnh Nghệ An: “Mối quan hệ tốt đẹp giữa Bác Hồ với Vi Quốc Thanh được thiết lập từ hồi kháng chiến chống Pháp đầu những năm 50 của thế kỷ XX - khi mà Vi Quốc Thanh sang làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam theo sự phân công của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.” (4)
Tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn VN chụp ảnh lưu niệm với đại diện 
thân nhân gia đình các tướng Tàu - Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Hồng Thủy

Thứ hai, báo quân đội nhân dân của nhà cầm quyền cộng sản dịch một bài viết của báo Trung cộng ca ngợi công lao của Vi Quốc Thanh và đàn em La Quý Ba, Trần Canh tại chiến dịch Điện Biên Phủ như sau: “Về vấn đề làm cố vấn như thế nào, Mao Chủ tịch nói: “Cố vấn thì là cố vấn, nhưng trên thực tế chính là tham mưu, làm tham mưu tốt cho các đồng chí lãnh đạo của người ta. Tham mưu chính là đề xuất chủ trương, nghĩ biện pháp, hiệp tác giúp đỡ lãnh đạo... Trung tuần tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đồng chí Trần Canh làm đại biểu sang Việt Nam, giúp đỡ tổ chức thực thi chiến dịch Biên Giới. Sau khi đến Việt Nam, đồng chí Trần Canh lập tức hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo cáo với Hồ Chủ tịch ý tưởng tác chiến tại biên giới đã suy nghĩ suốt dọc đường, đồng thời lập tức bôn tập ra tiền tuyến cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt nam trù hoạch tỷ mỉ kế hoạc tác chiến... Về chiến dịch Điện Biên Phủ khi đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Vi Quốc Thanh là Tổng cố vấn quân sự. Cố vấn quân sự các cấp của phía Trung Quốc ra tiền tuyến dốc toàn lực hiệp tác giúp đỡ...” (5)

Qua đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là suốt từ chiến dịch biên giới 1950 cho đến Điện Biên Phủ ông Giáp không phải là người đưa ra quyết sách mà hoàn toàn là người thi hành những cố vấn hay nói cách khác là chỉ đạo của Trung cộng thông qua La Quý Ba, Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Trong quân sự người tham mưu là tài tình nhất nhưng ông Giáp lại đơn thuần chỉ là kẻ ấn nút sau khi đã có kẻ khác lập trình sẵn. Phải chăng đây là cái “tài” của ông Giáp?

Võ Nguyên Giáp và Trần Canh

Thứ ba, tác phẩm “Mao chủ tịch của tôi” của tác giả người Trung cộng - Hà Cẩn (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ” - phần 11, 12) có viết về sự kiện Điện Biên Phủ tại trang 134 như sau: “Bằng sự sáng tạo của Mao chủ tịch trong việc đưa tới Việt Nam các đồng chí cố vấn mà chiến dịch đã kết thúc thắng lợi với vai trò chính yếu thuộc về thượng tướng Vi Quốc Thanh”

Từ người thứ nhì (bên trái sang): Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lý Hàm Trân (火腿陳) vợ Lã Quý Ba. Hồ Chí Minh, x, Đại tướng bí danh Lã Quý Ba (罗贵波), Trường Chinh, x... Ảnh chụp tại An Toàn Khu. Nguồn: Hoa Nam MSS.

Tướng Tầu cộng Trần Canh đang chỉ bảo bộ đội Việt Minh trước khi ra trận.

Thứ tư, trong cuốn “Đường tới Điện Biên Phủ” của Võ Nguyên Giáp, trong chương I, chính ông Giáp đã khẳng định vài trò của tướng Trung cộng trong chiến dịch biên giới 1950 và Điện Biên Phủ sau này: “Khi trở về Bắc Kinh, Bác đề nghị Trung Quốc cử cố vấn sang giúp Việt Nam nay mai sẽ đi vào đánh lớn. Bác gợi ý bạn cử đồng chí Trần Canh. Phía Trung Quốc trả lời đồng chí Trần đã được bố trí công tác rồi, và đưa ra danh sách gồm 4 người: La Quý Ba, Trung ương ủy viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trưởng đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn cố vấn về quân sự, Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưa, Mã Tây Phu, cố vấn về công tác hậu cần.” (6)

Hồ Chí Minh và các cố vấn Trung cộng

Một người chưa học qua trường lớp quân sự liệu có thể chỉ huy chiến dịch được không? Câu trả lời là không và chính vì vậy Hồ Chí Minh đã phải mời chuyên gia Trung cộng sang để vạch kế hoạc cho ông Giáp.

Thứ năm, cuốn sách: “A reporter's love for a wounded people”của tác giả Uwe Siemon-Netto người Đức đã mô tả về ông Giáp như sau: 

“Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xảy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học vi
Source: Quan Làm Báo